Truy cập nội dung luôn

Tin Kinh tế - Xã hội Tình hình kinh tế-xã hội tháng 11 năm 2017

22/11/2017 12:00    982

Tháng 11 năm nay, do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 12 và ảnh hưởng của không khí lạnh kết hợp với nhiễu động mạnh trong đới gió đông, nên tỉnh Quảng Ngãi có 02 đợt mưa lớn liên tiếp từ tối ngày 03/11 đến 01 giờ ngày 07/11/2017 với lượng mưa phổ biến 550 – 850 mm, một số nơi có lượng mưa đặc biệt lớn như Ba Tơ 1.399 mm; Trà Bồng 903 mm; Giá Vực 968 mm và Minh Long 865 mm. Do đó, đã xuất hiện 02 đỉnh lũ lớn liên tiếp, gây thiệt hại nặng về người và của cho nhân dân trong tỉnh. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản cũng bị thiệt hại nặng như:

​-    Nông nghiệp:+ Diện tích lúa thuần bị thiệt hại: 301,6 ha (Tây Trà: 5 ha; Bình Sơn: 211,4 ha; TP.Quảng Ngãi: 2,5 ha; Trà Bồng: 2,7ha; Mộ đức: 80 ha).
+ Diện tích hoa màu, rau màu bị thiệt hại: 1.877,4 ha (Trà Bồng: 3,5 ha; Nghĩa Hành: 208 ha; Tư Nghĩa: 154 ha; Sơn Hà: 02 ha; Bình Sơn: 287,1 ha, Đức Phổ: 80,3 ha, TP. Quảng Ngãi: 314 ha, Mộ Đức: 548 ha; Sơn Tịnh: 81,5 ha; Tây trà: 199 ha).
+ Số lượng hoa cảnh bị thiệt hại: 240.813 chậu (Nghĩa Hành: 10.190 chậu, Tư Nghĩa: 220.000 chậu, Mộ Đức: 10.000 chậu; TP.Quảng Ngãi: 623 chậu) và 03 ha hoa cúc (TP.Quảng Ngãi).
+ Diện tích đất canh tác bị sa bồi, thủy phá: 924,65  ha.
+ Trâu, bò bị chết: 107 con (Ba Tơ: 10 con; Trà Bồng: 12 con; Tây Trà: 24 con; Sơn Hà: 8 con, Bình Sơn: 26 con; Sơn Tịnh: 01 con; Sơn Tây: 21 con; Nghĩa Hành: 03 con; Tư Nghĩa: 02 con).
+ Heo bị chết: 1.050 con (Bình Sơn: 571 con, Nghĩa Hành: 90 con, TP. Quảng Ngãi: 38 con; Sơn Tịnh: 53 con; Tư Nghĩa: 97 con; Đức Phổ: 13 con; Sơn Tây: 12 con; Mộ Đức: 153 con; Tây Trà: 05 con; Trà Bồng: 18 con).
+ Gia cầm (gà, vịt) bị chết: 96.473 con (Sơn Hà: 800 con, Bình Sơn: 46.683 con, Nghĩa Hành: 12.998 con, Mộ Đức: 12.191 con; Sơn Tịnh: 16.370 con; Tư Nghĩa: 1.466 con; TP.Quảng Ngãi: 3.398 con; Đức Phổ: 917 con; Lý Sơn: 650 con; Trà Bồng: 1.000 con).
- Lâm nghiệp: Diện tích rừng trồng bị thiệt hại (keo): 1.007,66 ha.
- Thuỷ sản:
+ Tàu thuyền bị chìm: 08 tàu (TP. Quảng Ngãi: 04, Bình Sơn: 04).
+ Lồng bè nuôi cá bị thiệt hại: 23 bè (Lý Sơn; 22 bè; TP.Quảng Ngãi: 01 bè), 654 lồng (ô).
+ Diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại: 286,67 ha (Bình Sơn: 4,92 ha, TP. Quảng Ngãi: 81 ha; Đức Phổ: 0,75 ha; Ba Tơ: 200 ha)
    1.1. Nông nghiệp
    1.1.1. Trồng trọt
    Nhiệm vụ trọng tâm trong tháng là chăm sóc và thu hoạch rau đậu, lúa mùa, chuẩn bị gieo sạ vụ đông xuân 2017. Để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả kinh tế nên việc canh tác vụ mùa ngày càng ít được chú trọng. Tổng diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm (bao gồm cả sắn và mía) đạt 31.957,7 ha, giảm 1,5% (472,7 ha) so với vụ mùa năm 2016.
- Cây lúa: Đến nay, chỉ có 6 trong số 14 huyện, thành phố của tỉnh còn gieo sạ lúa mùa. Diện tích lúa mùa đạt 2.336,8  ha, giảm 2% (48,8 ha) so với cùng vụ năm 2016. Diện tích lúa giảm, chủ yếu là do lúa nương ở các huyện miền núi được chuyển sang trồng keo. Tính đến ngày 15/11/2017, ước thu hoạch được 1.923,8 ha lúa mùa, giảm 3,4% so với cùng thời điểm năm 2016; năng suất lúa đã thu hoạch ước đạt 28,6 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha so với cùng thời gian năm 2016. Ước chung toàn vụ, năng suất lúa mùa đạt 28,8 tạ/ha, giảm 0,7% (0,2 tạ/ha); sản lượng đạt 6.731,1 tấn, giảm 0,7% (184,9 tấn).
- Cây ngô: Trong vụ mùa, hầu hết diện tích ngô được trồng ở khu vực đồng bằng, chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngô chế biến các món thực phẩm và ngô luộc. Do ảnh hưởng của thời tiết mưa lớn làm cho sản lượng ngô giảm. Diện tích ngô vụ mùa đạt 1.161,7 ha, giảm 1,9% (22,9 ha) so với vụ mùa 2016; năng suất đạt 48 tạ/ha, giảm 0,7 tạ/ha; sản lượng đạt 5.572,5 tấn, giảm 3,5% (200,5 tấn).
-    Các loại cây rau, đậu, hoa và cây cảnh
Tổng diện tích gieo trồng rau, đậu và cây cảnh đạt 2.926,1 ha, tăng 0,5% (13,9 ha) so với vụ mùa 2016.
Diện tích rau các loại đạt 2.552,7 ha, tăng 0,8% (21,1 ha) so với vụ mùa năm 2016. Năng suất chung các loại rau đạt 140,2 tạ/ha, giảm 5,6 tạ/ha so với vụ mùa năm 2016. Sản lượng rau đạt 35.793 tấn, giảm 4,8% (1.807,3 tấn), do lũ lụt làm thiệt hại.
Diện tích đậu đạt 344,2 ha, giảm 3,3% (11,8 ha); năng suất đạt 15,3 tạ/ha, giảm 0,4 ta/ha; sản lượng đạt 525,9 tấn, giảm 5,6% (31,3 tấn).
1.1.2. Chăn nuôi
- Số liệu điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/10/2017:
Tính đến thời điểm 01/10/2017, toàn tỉnh có 44 trang trại và 976 gia trại chăn nuôi. Các trang trại chủ yếu nuôi gia công lợn và gà cho đối tác. Trong năm 2017, có 01 hợp tác xã và 02 doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực chăn nuôi được thành lập và đi vào hoạt động.
Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2017, đàn trâu toàn tỉnh có 70.671 con, tăng 2,5% (1.748 con) so với cùng thời điểm năm 2016. Trong năm, xuất chuồng 11.217 con trâu, tăng 2,5% (274 con) so với năm 2016. Do tập trung xuất chuồng và giết thịt trâu đã trưởng thành nên sản lượng thịt hơi đạt 2.984,7 tấn, tăng 7,3% (201,8 tấn).
Đàn bò có 277.350 con, tăng 0,1% (249 con) so với cùng thời điểm năm 2016. Đàn bò tăng chậm chủ yếu do giá thu mua bò trong năm có xu hướng giảm nhẹ nên một số hộ gia đình gặp khó khăn về nơi chăn thả, nguồn thức ăn đã tạm nghỉ hoặc giảm đàn. Trong năm, xuất chuồng 91.637 con bò với tổng sản lượng thịt hơi đạt 18.304,7 tấn, giảm tương ứng 1,8% (1.680 con) và 0,1% (22,5 tấn) so với năm 2016.
Chăn nuôi dê tuy còn nhỏ lẻ, chưa rộng rãi nhưng tăng trưởng mạnh. Đàn dê tại thời điểm 01/10/2017 có 9.698 con, tăng 12,9% (1.109 con) so với cùng thời điểm năm 2016.
Việc nuôi hươu lấy lộc bắt đầu hình thành. Tính đến thời điểm 1/10/2017, toàn tỉnh có 3 hộ nuôi hươu (huyện Đức Phổ 02 và Ba Tơ 01 hộ) với 24 con.
Đàn lợn có 401.135 con, giảm 8,4% (36.815 con) so với cùng thời điểm năm 2016. Trong đó, lợn thịt có 319.658 con, giảm 10,4% (37.222 con); lợn nái có 80.891 con, tăng 0,3% (279 con); lợn đực giống có 530 con, tăng 15,8% (72 con). Đàn lợn giảm là do từ cuối năm 2016 đến nay, giá thịt lợn hơi giảm sâu làm ảnh hưởng đến thu nhập của người nuôi, hạn chế thả nuôi lại sau xuất chuồng và tăng đàn. Giá thịt lợn hơi giảm nhưng giá thịt trên thị trường không giảm, nên mức độ tiêu thụ không tăng. Trong năm, xuất chuồng 736.296 con lợn với trọng lượng 40.978,1 tấn, giảm tương ứng 4,7% (35.910 con) và 12,3% (5.759,6 tấn) so với năm 2016. Ngoài ra còn xuất chuồng 49,3 tấn lợn sữa, tăng 1,4% (0,7 tấn).
Đàn gà có 3.615,3 ngàn con, tăng 7,9% (263,9 ngàn con) so với thời điểm 01/10/2016. Trong đó, gà thịt có 2.919,7 ngàn con, tăng 9,1% (244,5 ngàn con); gà đẻ trứng có 695,8 ngàn con, tăng 2,9% (19,5 ngàn con). Riêng gà công nghiệp có 325,2 ngàn con, tăng 2,5% (7,9 ngàn con ). Trong năm, xuất chuồng 5.382,9 ngàn con gà với tổng sản lượng thịt hơi đạt 8.715,3 tấn, tăng tương ứng 17,2% (791,3 ngàn con) và 20,7% (1.495,5 tấn) so với năm 2016. Sản lượng trứng gà trong năm đạt 33.525,8 ngàn quả, tăng 3,9% so với năm 2016. Trong đó, trứng gà công nghiệp đạt 13.857,6 ngàn quả, giảm 19,5%. Sản lượng trứng gà công nghiệp giảm mạnh (so với tốc độ giảm gà công nghiệp đẻ trứng) là do 01 doanh nghiệp tư nhân mới đi vào hoạt động (30 ngàn con), phần lớn gà chưa cho trứng.
Chăn nuôi vịt vẫn tiếp tục gặp khó khăn về nơi chăn thả ở một số địa phương. Tại thời điểm 01/10/2017, toàn tỉnh có 869,5 ngàn con vịt, giảm 0,3% (2,9 ngàn con) so với cùng thời điểm năm 2016. Trong đó, vịt đẻ trứng có 304,2 ngàn con, tăng 2,3% (6,7 ngàn con). Trong năm, xuất chuồng 1.287,5 ngàn con vịt với tổng sản lượng thịt hơi đạt 1.805,5 tấn, tăng tương ứng 3,7% (45,6 ngàn con) và 5,3% (90,5 tấn) so với năm 2016. Sản lượng trứng vịt đạt 51.488,4 ngàn quả, tăng 14,1% (6.366,3 ngàn quả).
-    Tình hình chăn nuôi trong tháng 11 năm 2017:
Sau mưa lũ đầu tháng 11, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm chính như trâu, bò, gà, vịt trở lại ổn định; việc xuất chuồng, nhất là trâu, bò diễn ra mạnh hơn các tháng trước nhằm tránh thiệt hại do mưa bão.
Ước tính tại thời điểm cuối tháng 11, đàn trâu toàn tỉnh đạt 69.750 con, tăng 2,9% so với cùng thời điểm năm 2016. Đàn bò đạt 279.360 con, tăng 0,1%. Đàn lợn đạt 400.580 con, giảm 8,3%. Đàn gia cầm đạt 4.988,9 ngàn con, tăng 6,3%; trong đó, đàn gà đạt 3.608,8 ngàn con, tăng 7,9%. 
Từ tháng 10 đến nay, thời tiết mưa nắng xen kẽ dễ làm phát sinh các loại dịch bệnh ở gia súc và gia cầm, nhất là các dịch bệnh như dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng gia súc, heo tai xanh,... Trong tháng 10, bệnh LMLM gia súc xảy ra tại 5 hộ thuộc xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh với tổng số trâu bò mắc bệnh 26 con (trâu 02 con, bò 24 con); bệnh cúm gia cầm xảy ra tại 01 hộ nuôi ở xã Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa làm chết và tiêu hủy 2.050 con gia cầm (chết trước tiêu hủy 290 con, tiêu hủy bắt buộc 1.760 con gồm 1.560 con vịt, 200 con gà). Tháng 11 (tính đến 15/11), bệnh LMLM gia súc xảy ra tại 12 hộ thuộc xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh với tổng số trâu bò mắc bệnh 32 con. Cơ quan chuyên môn hỗ trợ người nuôi chữa khỏi hầu hết số gia súc bị mắc bệnh.
1.2. Lâm nghiệp
Mưa đều nên việc trồng rừng tiếp tục được đẩy mạnh. Diện tích rừng trồng tập trung trong tháng ước đạt 2.987,5 ha, giảm 23,6% (924 ha) so với cùng tháng năm 2016 (do mưa lũ). Ước tính 11 tháng, diện tích rừng trồng tập trung đạt 12.650,9 ha, tăng 6,2% (742 ha) so với cùng kỳ năm 2016.
Từ đầu năm đến nay, việc khai thác lâm sản tập trung vào gỗ rừng trồng (gỗ nguyên liệu giấy), đót... Sản lượng gỗ khai thác giữ được tốc độ tăng trưởng cao nhờ diện tích rừng nguyên liệu giấy đến kỳ thu hoạch nhiều, chu kỳ khai thác rút ngắn. Sản lượng gỗ khai thác trong tháng ước đạt 71.671,5 m3, giảm 4,3% (3.249 m3) so với tháng 11 năm 2016. Ước tính 11 tháng, sản lượng gỗ khai thác đạt 869.966,5 m3, tăng 8,0% (64.310 m3) so với cùng kỳ năm 2016.
Sản lượng củi khai thác trong tháng ước đạt 10.556,6 ste, giảm 33,0% (5.209 ste) so với tháng 11 năm 2016. Ước tính 11 tháng, sản lượng củi khai thác đạt 217.775 m3, tăng 3,9% (8.184 ste) so với cùng kỳ năm 2016.
Từ đầu tháng 11 đến nay, không phát sinh cháy rừng và nguy cơ cháy cũng giảm nhờ có mưa đều, nắng nóng giảm. Tính từ đầu năm đến giữa tháng 11, toàn tỉnh xảy ra 02 vụ cháy rừng với tổng diện tích bị cháy là 2,07 ha (rừng trồng), giảm 9 vụ, tương ứng với 11,92 ha so với cùng kỳ năm 2016.
Trong tháng 11, qua tổ chức tuần tra, kiểm tra và truy quét, phát hiện 45 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, nhưng chủ yếu là vận chuyển trái phếp lâm sản và các vi phạm khác, không có phá rừng.
Tính từ đầu năm, toàn tỉnh phát hiện 337 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; trong đó, có 22 vụ phá rừng, phát rừng với diện tích 22,3 ha. So với cùng kỳ năm 2016, số vụ phát, phát rừng giảm 37 vụ, tương ứng với 25,4 ha. Trong đó, diện tích rừng phòng hộ (tự nhiên) bị phá là 3,37 ha; diện tích rừng sản xuất (rừng trồng) là 18,96 ha. Tất cả các vụ phá, phát rừng đều nhằm mục đích lấy đất làm nương rẫy (14 vụ) hoặc trồng cây lâu năm (8 vụ). Qua đó, thu giữ 151,6 m3 gỗ tròn và 201,9 m3 gỗ xẻ,…; thu nộp ngân sách Nhà nước 2,76 tỷ đồng.
    1.3. Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng 11 ước đạt 12.105,7 tấn, giảm 3,6% (448,1 tấn) so với tháng 11 năm 2016 (chủ yếu do ảnh hưởng cơn bão số 12 và 13 làm khai thác giảm; một số cá nuôi bị trôi).
Sản lượng thủy sản 11 tháng đầu năm ước đạt 177.324,3 tấn, tăng 7,1% (11.741 tấn) so với cùng kỳ năm 2016.
1.3.1. Khai thác
Khai thác thuỷ sản tăng trưởng cao do đầu tư nâng công suất tàu thuyền và các phương tiện phụ trợ, tăng năng lực đánh bắt. Theo số liệu điều tra thủy sản ngày 01/11/2017, toàn tỉnh có 5.138 chiếc tàu đánh bắt thủy sản có động cơ, tuy giảm 2,6% (135 chiếc) so với cùng thời điểm năm 2016 nhưng tổng công suất tàu thuyền đạt 1.330.030 CV, tăng 15,1% (174.308 CV).
Sản lượng khai thác trong tháng 11 ước đạt 11.713 tấn, giảm 3,3% so với tháng 11/2016 (chủ yếu do ảnh hưởng cơn bão số 12 và 13 làm thời gian khai thác trên biển ít hơn). Trong đó, cá đạt 9.047,7 tấn, giảm 3% so với cùng tháng năm 2016; tôm đạt 591 tấn, tăng 17,7%; các loại thuỷ sản còn lại đạt 2.012,3 tấn, giảm 9,4%.
Ước tính 11 tháng, sản lượng khai thác đạt 171.321 tấn, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, cá đạt 135.013,8 tấn, tăng 6,5%; tôm đạt 6.285 tấn, tăng 7,4%; các loại thuỷ sản còn lại đạt 29.450,2 tấn, tăng 10,5%.
1.3.2. Nuôi trồng
Trong tháng, dịch bệnh nuôi trồng thuỷ sản không xảy ra. Ước tính trong tháng, thu hoạch đạt 392,7 tấn thuỷ sản, giảm 10,3% (45,1 tấn) so với tháng 11 năm 2016; trong đó, sản lượng cá nuôi đạt 172,5 tấn, tăng 9,6%; tôm nuôi đạt 214,1 tấn, giảm 22,1%. 
Ước tính 11 tháng đầu năm 2017, toàn tỉnh thả nuôi 1.898,1 ha thuỷ sản các loại, tăng 6,5% (115,2 ha) so với cùng kỳ năm 2016; trong đó, diện tích nuôi tôm đạt 968,3 ha, tăng 12,3% (tôm sú đạt 54 ha, tăng 13,4%; tôm thẻ chân trắng đạt 914,3 ha). Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng thu hoạch ước đạt 6.003,3 tấn, tăng 7,1% (400 tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng cá đạt 1.448,6 tấn, giảm 8,8%; tôm đạt 4.336,3 tấn, tăng 15,7% (tôm sú ước đạt 111,2 tấn tăng 21,8%; tôm thẻ chân trắng ước đạt 4.225,1 tấn, tăng 15,6%); ốc hương đạt 157,7 tấn, tăng 107,5%. 
- Sản xuất giống: Sản xuất giống ngày càng suy giảm (chủ yếu do hạn chế về kỹ thuật). Ước tính 11 tháng đầu năm (tháng 11 ngừng sản xuất), sản xuất được 1.350 ngàn con giống tôm chân trắng; 414 ngàn cá giống nước ngọt; 5 triệu con giống ốc hương. 
    2. Sản xuất công nghiệp
Ước tính giá trị sản xuất tháng 11 năm 2017 đạt 9.622,3 tỷ đồng (theo giá SS 2010), giảm 0,2% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt 7.850,5 tỷ đồng, giảm 1,0%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.277,8 tỷ đồng, tăng 2,6% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 494 tỷ đồng, tăng 7,3%. Nếu so với cùng kỳ năm trước thì GTSX tháng này tăng 5,5%.
Tính chung 11 tháng đầu năm, GTSX công nghiệp đạt 92.917,2 tỷ đồng (theo giá SS 2010), giảm 7,0% so với cùng kỳ năm trước, nếu không tính sản phẩm lọc hóa dầu thì GTSX tăng 10,81%. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt 76.085,9 tỷ đồng, giảm 10,4%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 13.277,1 tỷ đồng, tăng 9,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3.554,2 tỷ đồng, tăng 26,5%.
Trong 11 tháng đầu năm, đa số các sản phẩm chủ yếu đều tăng. Trong đó, một số sản phẩm tăng khá so với cùng kỳ 2016 như: Thủy sản chế biến đạt 10.387 tấn, tăng 19,6%; đường RS đạt 139.344 tấn, tăng 26,5%; quần áo may sẵn đạt 13.104 ngàn cái, tăng 12,0%; gạch lát đạt 148 ngàn m2, tăng 13,0%; nước khoáng và nước tinh khiết đạt 74.170 ngàn lít, tăng 6,9%; sữa các loại đạt 238.003 ngàn lít, tăng 6,3%; dăm gỗ nguyên liệu giấy đạt 600.084 tấn, tăng 9,5%; điện sản xuất đạt 643,21 triệu kwh, tăng 71,0% và điện thương phẩm đạt 943,75 triệu kwh, tăng 10,9%. Riêng sản phẩm lọc hóa dầu đạt 5.557 ngàn tấn, giảm 10,9% (hay giảm 681,2 ngàn tấn) so với cùng kỳ năm trước.
    Chỉ số tiêu thụ dự tính của ngành công nghiệp chế biến tính đến hết tháng 11/2017 giảm 0,62% so với tháng trước. Có 08/17 nhóm sản phẩm tiêu thụ tốt hơn hoặc xấp xỉ cùng kỳ năm trước, trong đó có một số nhóm sản phẩm có mức tiêu thụ cao như: Nhóm sản phẩm từ ngành chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 17,45%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sợi tăng 9,16%; nhóm sản phẩm từ ngành may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú)  tăng 59,47%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 99,71%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh tăng 27,14%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sắt, thép, gang tăng 27,85%. Trong 09/17 nhóm sản phẩm tiêu thụ thấp hơn tháng trước, có 03 nhóm sản phẩm có mức tiêu thụ thấp nhất là: Nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột có mức tiêu thụ giảm 12,77% so với tháng trước; nhóm sản phẩm từ ngành cưa, xẻ, bào gỗ và bảo quản gỗ mức tiêu thụ giảm 38,8%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất các cấu kiện kim loại mức tiêu thụ giảm 51,64%.
    Chỉ số tồn kho dự tính tại thời điểm 01/12/2017 của ngành công nghiệp chế biến giảm 10,82% so với cùng thời điểm tháng trước. Trong 10/17 nhóm sản phẩm có mức tồn kho cao hơn hoặc bằng tháng trước, trong đó nhóm sản phẩm có mức tồn kho cao là: Nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột tăng 33,15%;  nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất bia tăng 41,96%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sợi tăng 37,03%; nhóm sản phẩm từ may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 30,41%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 666,67%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 27,55%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sản phẩm điện tử tăng 39,75%.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 30/11/2017 tăng 4,3% so với cùng thời điểm tháng trước. Chỉ số sử dụng lao động thuộc khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,17% so với cùng thời điểm tháng trước; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 4,7%; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 7,19%. Tại thời điểm trên, chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp khai khoáng tăng 0,56% so với cùng thời điểm tháng trước; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,73%; sản xuất, phân phối điện không tăng, không giảm; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,57%.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, chỉ số sử dụng lao động tại thời điểm 30/11/2017 tăng khá so với cùng thời điểm tháng trước tại các ngành: Dệt tăng 10,01%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,83%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tư, bàn, ghế) tăng 45,72%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 3,66%. Các ngành khác còn lại tăng, giảm nhẹ.
3. Đầu tư và xây dựng
                Trong tháng 11 năm 2017, do ảnh hưởng của bão số 12 đã gây ra lũ lụt, sạt lở núi tại nhiều vùng trong tỉnh, ảnh hưởng lớn tới công tác thi công xây lắp các công trình và đời sống của nhân dân trên địa bàn tỉnh. Ngày 07 tháng 11 năm 2017 UBND tỉnh đã có Công văn số 6845/UBND-NNTN chỉ đạo các đơn vị khẩn trương tập trung khắc phục hậu quả lũ lụt, sớm ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân.
                Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý trong tháng ước đạt 280,7 tỷ đồng, giảm 2,1% so với tháng trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước đạt gần 277 tỷ đồng, giảm 2,1%; vốn vay đạt 2,4 tỷ đồng, giảm 6,7%; vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước đạt 1,3 tỷ đồng, giảm 3,5%. Nếu so với cùng kỳ năm trước thì vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý tăng 34,7%.
Tính chung 11 tháng đầu năm 2017, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 2.932,6 tỷ đồng, tăng 30,3% so cùng kỳ năm 2016. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước đạt 2.891,1 tỷ đồng, tăng 30,7%; vốn vay đạt 26,4 tỷ đồng, tăng 5,6%; vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước đạt 15,2 tỷ đồng, tăng 5,1%. 
4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng (tính đến ngày 20/11/2017), toàn tỉnh có 31 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới  với số vốn đăng ký là 526,98 tỷ đồng, giảm 11,43 % về số doanh nghiệp nhưng tăng 350,06% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng có 05 doanh nghiệp  đăng ký tạm ngừng hoạt động và có 01 doanh nghiệp  đã giải thể.
 Luỹ kế từ đầu năm, toàn tỉnh có 649 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới  với số vốn đăng ký là 13.864,7 tỷ đồng, tăng 13,9% về số doanh nghiệp và tăng 247,6%  về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 21,4 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong thời gian trên có 125 doanh nghiệp   đăng ký tạm ngừng hoạt động và có 69 doanh nghiệp   đã giải thể.
                5. Thương mại, dịch vụ, giá cả
    5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 11 năm 2017 ước đạt 3.959,2 tỷ đồng, tăng 0,96% so với tháng trước. Trong đó: thành phần kinh tế nhà nước đạt 233,1 tỷ đồng, tăng 2,57%; kinh tế cá thể đạt 2.856,1 tỷ đồng, tăng 0,87%; kinh tế tư nhân đạt 866,9 tỷ đồng, tăng 0,82%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,9 tỷ đồng.
            Tính chung 11 tháng đầu năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 42.205,4 tỷ đồng, tăng 11,55% so với cùng kỳ năm 2016, đáng chú ý có 03 nhóm hàng hóa lượng tiêu thụ tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước là gỗ và vật liệu xây dựng tăng 15,43%; ô tô các loại tăng 433,64%; xăng dầu các loại tăng 16,75%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng thì thành phần kinh tế nhà nước đạt 2.436,5 tỷ đồng, tăng 13,11%; kinh tế cá thể đạt 30.561,3 tỷ đồng (chiếm 72,41% trong tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng), tăng 11,26%; kinh tế tư nhân đạt 9.174,5 tỷ đồng, tăng 12,01%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xét theo ngành hoạt động thì hoạt động thương nghiệp đạt 31.347,5 tỷ đồng (chiếm 74,27% trong tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng), tăng 10,81%; hoạt động lưu trú đạt 264,4 tỷ đồng, tăng 18,19%; hoạt động ăn uống đạt 7.665,7 tỷ đồng, tăng 12,66%; hoạt động du lịch lữ hành đạt 7,6 tỷ đồng, tăng 18,67%; hoạt động dịch vụ đạt 2.920,2 tỷ đồng, tăng 16,24%.
        5.2. Chỉ số giá tiêu dùng
    Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2017 tương đối ổn định, chỉ tăng 0,46% so với tháng trước, nguyên nhân tăng chủ yếu do ảnh hưởng của bão, lũ làm cho giá rau xanh và cá tươi sống các loại tăng. Chỉ số giá tháng này tăng 2,83% so với tháng 11/2016, tăng 2,25% so với tháng 12 năm 2016; bình quân 11 tháng đầu năm so với bình quân cùng kỳ năm trước tăng 6,12%.
    Trong tháng, đa số các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá ổn định. Có 06/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ tăng, gồm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,83%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,66%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,02%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,27%; giao thông tăng 0,76%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,66%. Có 02/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá giảm, gồm: đồ uống và thuốc lá giảm 0,35%; nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,13%%. Có 03/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại có chỉ số không tăng, không giảm, gồm: Bưu chính viễn thông; giáo dục; văn hoá, giải trí và du lịch.
         Chỉ số giá vàng tháng 11/2017 giảm 0,42% so với tháng trước; tăng 5,73% so với tháng 12/2016; tăng 2,27% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 11 tháng tăng 3,15%. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2017 giảm 0,05% so với tháng trước; tăng 0,10% so với tháng 12/2016; tăng 1,61% so với cùng kỳ năm 2016; bình quân 11 tháng tăng 1,73%.
                6. Hoạt động vận tải
Trong tháng, do ảnh hưởng của cơn bão số 12 gây lũ lụt và sạt lở đất đã làm cho nhiều tuyến đường trên địa bàn tỉnh bị sạt lở, cầu bị sập đổ như: Đường do tỉnh quản lý, ủy thác quản lý có 280 điểm bị sạt lở, chiều dài hư hỏng 128.000 m, cầu bị hư hỏng 07 cái, cầu bị sập 01 cái; tuyến giao thông huyện, xã quản lý có 08 cầu bị sập đổ, 22 cầu bị hư hỏng... Ngành Giao thông Vận tải của tỉnh đã tích cực khắc phục hậu quả thiệt hại, đảm bảo giao thông thông suốt.
- Vận tải hành khách trong tháng 11 năm 2017 ước đạt 479,05 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 106.171,63 ngàn lượt khách-km, tăng tương ứng 20,44% và 21,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hành khách bằng đường bộ ước đạt 455,68 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 105.470,37 ngàn lượt khách-km; vận tải hành khách bằng đường thủy ước đạt 23,37 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 701,26 ngàn lượt khách- km.
Tính chung 11 tháng đầu năm 2017, vận chuyển hành khách ước đạt 5.272,08 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 1.197.305,93 ngàn lượt khách – km, tăng tương ứng 18,02% và 13,46% so với cùng kỳ năm 2016, bao gồm: Vận tải đường bộ ước đạt 5.030 ngàn lượt khách, tăng 17,82% và 1.190.036,04 ngàn lượt khách – km, tăng 13,41%; đường thủy ước đạt 242,08 ngàn lượt khách, tăng 22,33% và 7.269,89 ngàn lượt khách – km, tăng 22,13%.
                - Vận tải hàng hóa trong tháng 11 năm 2017 ước đạt 840,19 ngàn tấn với mức luân chuyển 134.231,28 ngàn tấn-km, tăng tương ứng 14,79% và 9,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hàng hóa bằng đường bộ ước đạt 830,7 ngàn tấn với mức luân chuyển 133.946,56 ngàn tấn-km; vận tải hàng hóa bằng đường thủy ước đạt 9,49 ngàn tấn với mức luân chuyển 284,72 ngàn tấn- km.
Tính chung 11 tháng đầu năm 2017, vận tải hàng hóa ước đạt 9.271,16 ngàn tấn với mức luân chuyển 1.471.751,26 ngàn tấn-km, tăng tương ứng 12,82% và 10,47% so với cùng kỳ năm 2016, bao gồm: Vận tải đường bộ ước đạt 9.165,96 ngàn tấn, tăng 12,75% và 1.468.591,76 ngàn tấn – km, tăng 10,46%; đường thủy ước đạt 105,20 ngàn tấn, tăng 18,67% và 3.159,50 ngàn tấn – km, tăng 17,41%.
- Doanh thu vận tải và các hoạt động dịch vụ vận tải trong tháng 11 năm 2017 ước đạt 224,9 tỷ đồng, tăng 11,07% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng đầu năm 2017, doanh thu vận tải và các hoạt động dịch vụ vận tải ước đạt 2.492,1 tỷ đồng, tăng 9,93% so với cùng kỳ năm 2016, bao gồm: Vận tải hành khách ước đạt 731,8 tỷ đồng, tăng 14,32%; vận tải hàng hóa ước đạt 1.236,2 tỷ đồng, tăng 9,86%; hoạt động kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 524,0 tỷ đồng, tăng 4,47%.
    7. Một số vấn đề xã hội
    7.1. Công tác giáo dục và đào tạo
    Trong tháng, Ngành Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm: Tiếp tục tham mưu, trình UBND tỉnh Dự thảo Phương án thực hiện kế hoạch dạy tiếng Việt cho con em người Việt sinh sống tại Lào; Kế hoạch tổ chức Hội khỏe Phù Đổng các cấp tiến đến tổ chức Hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh lần thứ XII năm 2018; Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định 1076/QĐ-TTg ngày 17/06/2016 của Chính phủ Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025. Chỉ đạo, theo dõi công tác phòng, chống cơn bão số 12, mưa lũ đối với ngành giáo dục; qua báo cáo các đơn vị trong toàn ngành, tính đến ngày 09/11/2017, cơ sở vật chất, thiết bị, tài sản, cơ sở giáo dục bị thiệt hại nặng với tổng giá trị thiệt hại ước tính ban đầu khoảng trên 9,6 tỷ đồng; Sở GDDT tỉnh và Công đoàn ngành đã kịp thời đến thăm hỏi, động viên, hỗ trợ đối với cô giáo Hồ Thị Mai, giáo viên trường Tiểu học Trà Giang, bị chết do sập nhà trong mưa lũ.
    Phát động các phong trào thể dục, thể thao, văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam; chuẩn bị các điều kiện tổ chức họp mặt nhân ngày 20-11.
    Tổ chức các Hội thi cấp tỉnh: “Cô nuôi trẻ giỏi”; Ngày hội học sinh tiểu học với ATGT; thi viết tìm hiểu pháp luật về ATGT; vẽ tranh cổ động phòng, chống ma túy, HIV – AIDS và tệ nạn xã hội.
    7.2. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
- Trong tháng trên địa bàn tỉnh có 111 ca mắc sốt xuất huyết,  phân bố theo huyện (mắc/chết): Bình Sơn 25/0, Sơn Tịnh 17/0,  TP Quảng Ngãi 36/0, Tư Nghĩa 14/0 , Mộ Đức 6/0, Đức Phổ 3/0, Nghĩa Hành 5/0, Trà Bồng 4/0, Ba  Tơ 1/0. So với tháng 9/2017 số ca mắc tăng 4 ca. Tính đến cuối tháng 10/2017 tổng số ca mắc sốt xuất huyết là 1.157 ca, 92 ca dương tính, chết 0. So với cùng kỳ năm 2016 số ca mắc tăng 1,27 lần.
- Trong tháng tình hình sốt rét ổn định, không có dịch xảy ra, số bệnh nhân phát hiện trong tháng: 01 ca.
- Bệnh nhân AIDS mới đưa vào điều trị trong tháng 03 ca. Tổng số bệnh nhân AIDS đang được điều trị là: 259 ca. Tư vấn xét nghiệm tự nguyện: 1.328 ca.
- Về ngộ độc thực phẩm: Không có ngộ độc thực phẩm xảy ra. Giám sát mối nguy và hậu kiểm 346 mẫu thực phẩm (tỉnh: 20 mẫu, huyện: 175 mẫu test nhanh, xã: 151 mẫu test nhanh). Kết quả: 322/346 đạt (24 mẫu không đạt, gồm: 01 mẫu thức ăn bị nhiễm vi khuẩn E.coli, 23 mẫu test nhanh độ sạch bát chén đĩa).
7.3. Tình hình tai nạn giao thông
Tình hình tai nạn giao thông trong tháng (tính từ ngày 16/10/2017 đến 15/11/2017), toàn tỉnh đã xảy ra 08 vụ TNGT (các vụ có hậu quả từ ít nghiêm trọng trở lên), chết 09 người, bị thương 03 người. Trong đó TNGT đường bộ xảy ra 07 vụ, chết 08 người, bị thương 03 người; TNGT đường sắt xảy ra 01 vụ, chết 01 người; TNGT đường thủy nội địa không xảy ra.
 So với tháng 11/2016, TNGT đường bộ: số vụ giảm 07 vụ (50,0%), số người chết giảm 07 người (53,33%), số người bị thương giảm 02 người (60,0%); TNGT đường sắt: số vụ tăng 01 vụ, số người chết tăng 01 người; TNGT đường thủy nội địa: không xảy ra (không tăng, không giảm).
Va chạm giao thông trong tháng xảy ra 17 vụ, số người bị thương 31 người. So với tháng 11/2016, số vụ giảm 25 vụ; số người bị thương giảm 32 người. So với tháng 10/2017, số vụ giảm 15 vụ; số người bị thương giảm 11 người.
Tính chung 11 tháng đầu năm (từ ngày 16/12/2016 đến ngày 15/11/2017), toàn tỉnh đã xảy ra 125 vụ TNGT (các vụ có hậu quả từ ít nghiêm trọng trở lên), chết 131 người, bị thương 60 người. Trong đó, TNGT đường bộ xảy ra 122 vụ, chết 128 người, bị thương 60 người; TNGT đường sắt xảy ra 03 vụ, chết 03 người; TNGT đường thủy nội địa không xảy ra.
So với cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 13 vụ (- 9,42%), số người chết giảm 14 người (- 9,66%), số người bị thương giảm 33 người (-35,48%). Trong đó, TNGT đường bộ: số vụ giảm 11 vụ (-8,27%), số người chết giảm 12 người (-8,57%), số người bị thương giảm 33 người (-35,48%); TNGT đường sắt: số vụ giảm 01 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương không tăng, không giảm; TNGT đường thủy nội địa: số vụ giảm 01 vụ, số người chết giảm 01 người.
Va chạm giao thông 11 tháng đầu năm xảy ra 430 vụ, số người bị thương 627 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 24 vụ; số người bị thương giảm 56 người.

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 1403

Tổng số lượt xem: 479095

Bản quyền © 2024 thuộc Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi | Cổng thông tin điện tử Quảng Ngãi

Chịu trách nhiệm nội dung: Võ Thành Nhân - Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Điện thoại: 0255.3822862. Email: quangngai@gso.gov.vn.

Địa chỉ: 19 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

ipv6 ready