Truy cập nội dung luôn
Tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 tháng đầu năm 2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 tháng đầu năm 2023

17:23 03/07/2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 tháng đầu năm 2023
Tiềm năng và giải pháp phát triển thủy sản hồ chứa thủy điện trên địa bàn huyện Sơn Tây

Tiềm năng và giải pháp phát triển thủy sản hồ chứa thủy điện trên địa bàn huyện Sơn Tây

16:45 22/06/2023

Sơn Tây là huyện miền núi nằm ở phía tây tỉnh Quảng Ngãi với dân cư chủ yếu là người Hre. Toàn huyện hiện có 7 hồ chứa thủy điện với tổng diện tích 574,9 ha; trong đó, hồ Đăkrinh có diện tích lớn nhất với 460 ha, ba hồ rộng từ 20-22 ha và ba hồ dưới 12 ha. Các hồ trải đều trên địa bàn huyện, tạo cảnh quan du lịch, sinh kế cho người dân sống gần hồ.
Tình hình kinh tế-xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2023

16:36 29/05/2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2023
Tình hình kinh tế-xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023

16:00 29/04/2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023
Tình hình kinh tế-xã hội Quý I năm 2023

Tình hình kinh tế-xã hội Quý I năm 2023

15:57 26/03/2023

Tình hình kinh tế-xã hội Quý I năm  2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 02 và 2 tháng đầu năm 2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 02 và 2 tháng đầu năm 2023

11:17 28/02/2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 02 tháng đầu năm 2023
Tình hình kinh tế-xã hội tháng 01 năm 2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 01 năm 2023

11:12 29/01/2023

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 01 năm 2023
Tình hình kinh tế-xã hội năm 2022

Tình hình kinh tế-xã hội năm 2022

11:02 29/12/2022

Tình hình kinh tế-xã hội năm 2022
UBND huyện Sơn Tây tổ chức sàn giao dịch việc làm trên địa bàn huyện

UBND huyện Sơn Tây tổ chức sàn giao dịch việc làm trên địa bàn huyện

17:00 01/12/2022

Thực hiện kế hoạch 125/KH-UBND về việc thực hiện tiểu dự án 3 hỗ trợ  việc làm bền vững trong dự án 4 thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Sơn Tây, ngày 30/11/2022, UBND huyện Sơn Tây phối hợp với Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Quảng Ngãi tổ chức sàn giao dịch việc làm năm 2022 tại xã Sơn Dung. 
Tình hình kinh tế-xã hội tháng 11 và 11 tháng đầu năm 2022

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 11 và 11 tháng đầu năm 2022

10:57 29/11/2022

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 11  và 11 tháng đầu năm 2022

Đ/c Đinh Trường Giang - PCT UBND Huyện phát biểu chỉ đạo hội nghị

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, đồng chí Đinh Trường Giang nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024, không chỉ thu thập thông tin về dân số mà còn thu thập các dữ liệu cần thiết khác làm căn cứ quan trọng và hữu ích phục vụ hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; do đó, khi tổ chức thực hiện phải tuân thủ các nội dung quy định trong Phương án, bảo mật thông tin thu thập từ các đối tượng điều tra theo quy định của Luật Thống kê; đặc biệt, đội ngũ điều tra viên thống kê cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt cuộc điều tra, đảm bảo vượt tiến độ quy định. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cũng phải thực hiện nghiêm túc, đúng hướng dẫn; cần tập trung vào mục đích, ý nghĩa, nội dung của cuộc điều tra để người dân hiểu và hưởng ứng. Và để đảm bảo điều đó, các cơ quan liên quan, UBND các xã cần tích cực phối hợp với Chi cục Thống kê huyện triển khai thực hiện công tác tuyên truyền theo kế hoạch đã đề ra. 

Đ/c Nguyễn Ngọc Dân - Chi cục trưởng hướng dẫn nghiệp vụ điều tra

          Đồng chí Chi cục trưởng và công chức Chi cục Thống kê huyện đã giới thiệu Phương án điều tra của Tổng cục Thống kê, kế hoạch tổ chức thực hiện, kế hoạch tổ chức tuyên truyền trên địa bàn huyện, hướng dẫn cách xác định nhân khẩu thực tế thường trú, cách ghi phiếu điều tra, cài đặt phiếu điện tử và thực hành điều tra trên thiết bị điện thoại thông minh.

Quanh cảnh hội nghị

Điều tra dân số giữa kỳ 2024 sẽ thu thập thông tin các thông tin chính: về nhân khẩu học của các thành viên hộ; về di cư; về giáo dục; về hôn nhân; về lịch sử sinh của nữ từ 10 - 49 tuổi; về người chết của hộ; về nhà ở và điều kiện sống của hộ.

Đối tượng điều tra của Điều tra dân số giữa kỳ 2024 là hộ dân cư và nhân khẩu thực tế thường trú của hộ dân cư, không bao gồm những người đang sống trong khu vực quản lý riêng của Quân đội và Công an.

Bên cạnh đó, trong cuộc điều tra dân số giữa kỳ 2024 lần này, người có quốc tịch nước ngoài lần đầu tiên được đưa vào là đối tượng điều tra, nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn thống kê và khuyến nghị của quốc tế về thống kê dân số, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững để “không ai bị bỏ lại phía sau”.

28/03/2024

          Điều tra DSGK 2024 được thực hiện trên phạm vi cả nước tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (tỉnh, thành phố), gồm tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (huyện) ngoại trừ 4 huyện đảo nhỏ là: Bạch Long Vỹ (thành phố Hải Phòng); Cồn Cỏ (tỉnh Quảng Trị); Hoàng Sa (thành phố Đà Nẵng); Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa) với các mục đích chính sau:

 

          - Thu thập thông tin về dân số và nhà ở làm cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021 - 2025; xây dựng chính sách, lập kế hoạch dân số và nhà ở phục vụ lập Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2026 - 2030; giám sát thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết.

 

          - Cung cấp số liệu về quy mô dân số đến cấp huyện 5 năm sau Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (viết gọn là Tổng điều tra 2019); làm cơ sở rà soát, hiệu chỉnh số liệu dân số hàng năm giai đoạn 2020 - 2024; cập nhật kho dữ liệu dân số và nhà ở do Tổng cục Thống kê quản lý phục vụ nghiên cứu, phân tích và dự báo quá trình phát triển dân số và nhà ở giữa hai kỳ tổng điều tra trên phạm vi cả nước và từng địa phương; đáp ứng yêu cầu so sánh quốc tế.

 

          Thời gian thu thập thông tin trong Điều tra DSGK 2024 bắt đầu từ ngày 01 tháng 4 năm 2024 đến ngày 30 tháng 4 năm 2024. Thời điểm điều tra là 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2024.

 

          So với các cuộc điều tra trước về dân số, Điều tra DSGK 2024 có một số điểm mới:


          Thứ nhất, kết quả Điều tra DSGK 2024 góp phần thực hiện Đề án 06. Dữ liệu dân cư là tài nguyên quan trọng và là một trong những cơ sở để chuyển đổi số trong cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Để phát triển ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ngày 06/01/2022, Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06) theo Quyết định số 06/QĐ-TTg. Đề án 06 giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) thực hiện nhiệm vụ thống kê, phân tích dân số đảm bảo nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí nhà nước. Kết quả của Điều tra DSGK 2024 góp phần thực hiện nhiệm vụ này của Tổng cục Thống kê.

          Thứ hai, đối tượng điều tra có sự thay đổi. Trong các cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở đã thực hiện cũng như các cuộc điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình hằng năm, đối tượng điều tra của cuộc điều tra chỉ bao gồm người có quốc tịch Việt Nam.


          Tuy nhiên khác với cuộc điều tra trước đó, đối tượng điều tra của Điều tra DSGK 2024 là hộ dân cư và nhân khẩu thực tế thường trú của hộ dân cư, không bao gồm những người đang sống trong khu vực quản lý riêng của quân đội và công an.

          Bên cạnh đó, trong cuộc điều tra DSGK 2024 lần này, người có quốc tịch nước ngoài lần đầu tiên được đưa vào là đối tượng điều tra, nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn thống kê và khuyến nghị của quốc tế về thống kê dân số, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững để “không ai bị bỏ lại phía sau”. Công tác thu thập thông tin đối với người nước ngoài được quy định cụ thể như sau:

          - Đối với hộ có người nước ngoài sống cùng người Việt Nam: Thu thập các thông tin như đối với người Việt Nam (trường hợp người nước ngoài nghe và nói được tiếng Việt: Phỏng vấn trực tiếp người nước ngoài; trường hợp người nước ngoài không thể nghe và nói được tiếng Việt: Hỏi thông tin về người nước ngoài qua người Việt Nam sống cùng trong hộ).


          - Đối với hộ chỉ bao gồm người nước ngoài: Sử dụng phiếu dành riêng cho người nước ngoài chỉ gồm 10 câu hỏi để thu thập thông tin về giới tính, tuổi, quốc tịch, nơi sinh, tình trạng di chuyển, tình trạng nhà ở của hộ (phiếu điều tra được dịch ra 6 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) để phù hợp nhất với hộ người nước ngoài được chọn).


          Thứ ba, Điều tra DSGK 2024 có quy mô mẫu lớn. Điều tra DSGK 2024 là cuộc điều tra chọn mẫu, thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Dàn chọn mẫu sử dụng trong Điều tra DSGK 2024 là dàn mẫu tổng thể của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (TĐTDS 2019). Điều tra DSGK 2024 có cỡ mẫu 20% địa bàn điều tra của cả nước (tương đương 39.340 địa bàn), mẫu được chọn ở tất cả các huyện với quy mô mẫu đảm bảo các chỉ tiêu về quy mô dân số được đại diện đến cấp huyện (khoảng trên 1,1 triệu hộ mẫu). Do đó, quy mô mẫu của Điều tra DSGK 2024 là khá lớn.


          Thứ tư, kết hợp phương pháp thu thập thông tin trực tiếp và gián tiếp: Trong Điều tra DSGK 2024 lần này thu thập thông tin đối với đối tượng điều tra là người nước ngoài. Do đó, ngoài phương pháp thu thập thông tin phỏng vấn trực tiếp như các cuộc điều tra trước đây, Điều tra DSGK 2024 còn kết hợp phương pháp gián tiếp, áp dụng đối với những hộ mà toàn bộ thành viên là người nước ngoài, không giao tiếp được bằng tiếng Việt.


          Thứ năm, sử dụng kết hợp công cụ thu thập thông tin là phiếu điều tra điện tử và phiếu điều tra in trên giấy: Điều tra DSGK 2024 sử dụng phiếu điều tra điện tử cài đặt trên thiết bị di động là chính. Bên cạnh đó còn sử dụng phiếu điều tra in trên giấy để gửi đến hộ kèm Thư gửi hộ đối với những hộ mà toàn bộ thành viên là người nước ngoài, không giao tiếp được bằng tiếng Việt.


          Ngoài ra, còn một số điểm mới liên quan đến an toàn, bảo mật thông tin, xử lý, tích hợp kết quả và một số khâu khác của cuộc điều tra. Để chỉ đạo triển khai thực hiện cuộc điều tra quan trọng này, các tổ công tác đã được thành lập ở cấp Trung ương và các tỉnh, thành phố với thành phần gồm ngành Thống kê, các sở, bộ, ngành liên quan như Công an, Y tế, Tư pháp.../.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện
 

25/03/2024

          Điều tra doanh nghiệp năm 2024 được tiến hành nhằm thu thập các thông tin về doanh nghiệp, hợp tác xã/liên hiệp hợp tác xã (gọi chung là doanh nghiệp) phục vụ công tác quản lý, điều hành, đánh giá và dự báo tình hình kinh tế - xã hội, lập chính sách, kế hoạch phát triển của toàn bộ nền kinh tế và từng địa phương.

          Số liệu thu thập từ điều tra được sử dụng để tính một số chỉ tiêu quan trọng như: Chỉ tiêu Tổng sản phẩm trong nước (GDP), Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (GRDP) năm 2023, các chỉ tiêu thống kê khác thuộc Hệ thống tài khoản quốc gia và các chỉ tiêu thống kê của các chuyên ngành kinh tế. Kết quả từ điều tra doanh nghiệp năm 2024 được dùng để biên soạn "Sách trắng doanh nghiệp năm 2024" và “Sách trắng hợp tác xã năm 2024”; Cập nhật cơ sở dữ liệu làm dàn mẫu của các cuộc điều tra thống kê về doanh nghiệp; Và đáp ứng nhu cầu của các đối tượng dùng tin khác.

 

Ảnh minh họa

         

Ngành Thống kê khi tiến hành Điều tra doanh nghiệp cần đảm bảo các yêu cầu sau: Thực hiện đúng các nội dung quy định trong Phương án điều tra; Phạm vi, nội dung điều tra phải đầy đủ, thống nhất và không trùng chéo với các điều tra khác;  Bảo mật thông tin thu thập từ các đối tượng điều tra theo quy định của Luật Thống kê; Quản lý và sử dụng kinh phí của cuộc điều tra đúng chế độ hiện hành, sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả; Kết quả điều tra phải đáp ứng yêu cầu của người dùng tin trong và ngoài nước; đảm bảo tính so sánh quốc tế.


          Điều tra doanh nghiệp năm 2024 được tiến hành trên phạm vi 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc tất cả các ngành trong Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam (VSIC 2018) trừ 3 ngành (do đối tượng điều tra không phát sinh trong các ngành này): Ngành O - Hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc; Ngành U - Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế; Ngành T - Hoạt động làm thuê các công việc trong các gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình.

          Đối tượng điều tra doanh nghiệp năm 2024 là cơ sở sản xuất, kinh doanh có hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi một ngành kinh tế tại một địa điểm (đơn vị ngành kinh tế theo địa bàn) của tất cả ngành kinh tế quốc dân (trừ ngành O, U và T trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân).


          Đơn vị điều tra gồm 64 tập đoàn, tổng công ty; doanh nghiệp; hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) và các chi nhánh hạch toán độc lập trực thuộc doanh nghiệp.


          Điều tra doanh nghiệp năm 2024 là cuộc điều tra thực hiện điều tra toàn bộ kết hợp với điều tra chọn mẫu. Theo đó, áp dụng đối với toàn bộ doanh nghiệp nhằm thu thập thông tin cơ bản về thông tin định danh, ngành nghề sản xuất kinh doanh, lao động; Áp dụng đối với các doanh nghiệp được chọn mẫu điều tra nhằm mục đích mở rộng nội dung điều tra, phục vụ tính các chỉ tiêu chuyên ngành, giúp nâng cao chất lượng điều tra nhất là đối với các câu hỏi phức tạp, chuyên sâu.

          Các thông tin thu thập trong Điều tra doanh nghiệp năm 2024 gồm: Thông tin nhận dạng: Thông tin định danh của đơn vị điều tra; ngành hoạt động sản xuất, kinh doanh; loại hình doanh nghiệp; cơ sở trực thuộc của doanh nghiệp; Thông tin về lao động và thu nhập của người lao động: Số lao động; thu nhập của người lao động; Thông tin về kết quả, chi phí sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động, chi phí sản xuất kinh doanh; vốn đầu tư; sản lượng sản xuất của sản phẩm; tiêu dùng năng lượng; các chỉ tiêu thống kê chuyên ngành trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia phân tổ theo Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam và Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam; Thông tin về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ của doanh nghiệp.

          Thời điểm Điều tra doanh nghiệp được tiến hành vào ngày 01/4/2024. Do tính chất quy mô không giống nhau nên các địa phương trong cả nước có thời gian tiến hành điều tra khác nhau. Tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, thời gian tiến hành từ ngày 01/4/2024 đến hết ngày 31/7/2024. Đối với các tỉnh, thành phố có số lượng doanh nghiệp từ 5.000 doanh nghiệp trở lên, thời gian tiến hành từ ngày 01/4/2024 đến hết ngày 30/6/2024; Các tỉnh, thành phố còn lại thời gian tiến hành từ ngày 01/4/2024 đến hết ngày 30/5/2024.


          Cục Thống kê chủ trì chỉ đạo thực hiện công tác thu thập thông tin tại địa bàn, bảo đảm tiến độ và chất lượng thông tin thu thập.


          Dự kiến, kết quả chính thức của cuộc điều tra doanh nghiệp 2024 sẽ được công bố vào quý I năm 2025./.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện

25/03/2024

          Con người vừa mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển và thịnh vượng của mỗi quốc gia, dân tộc. Vì vậy phát triển con người luôn được chú trọng và đề cập trong các nghị quyết của Đảng và các chính sách của Nhà nước.

          Việc cung cấp các thông tin đầy đủ, kịp thời và đáng tin cậy về quy mô dân số, tình trạng nhà ở và một số các đặc trưng cơ bản khác ở phạm vi quốc gia và ở các cấp hành chính nhỏ hơn có giá trị đặc biệt quan trọng phục vụ cho việc quản lý, quy hoạch và phát triển kinh tế - xã hội.

          Thực tế ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các chính sách quan trọng như sáp nhập, chia tách tỉnh, huyện, xã; phân bổ ngân sách; quy hoạch, nhà ở... đều cần thông tin về dân số và nhà ở và một số đặc trưng cơ bản.

          Mặc dù hiện nay, Việt Nam đã xây dựng thành công cơ sở dữ liệu căn cước công dân và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (Cơ sở dữ liệu này hiện đang giao cho Bộ Công an quản lý). Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần triển khai điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ vì một số lý do sau:

          Trước hết, Điều tra dân số nói chung và Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ nói riêng nhằm thu thập thông tin về con người trong đời sống kinh tế - xã hội thực tế của một khu vực địa lý, một quốc gia theo các tiêu chí được thừa nhận và áp dụng trên toàn thế giới. Các tiêu chí này không hoàn toàn thống nhất với quy định của cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia. Cụ thể, để xác định một người sẽ được tính vào dân số của một địa bàn hành chính nào đó, Điều tra dân số dựa trên khái niệm “nhân khẩu thực tế thường trú”. Nhân khẩu thực tế thường trú là những người đã cư trú ổn định trên địa bàn từ 6 tháng trở lên hoặc chưa đủ 6 tháng nhưng có ý định cư trú ổn định lâu dài tại địa bàn, không phân biệt họ có hay không có các giấy tờ đảm bảo cư trú cần thiết như: Sổ hộ khẩu, giấy đăng ký tạm trú,…

          Trong khi đó, để được ghi nhận vào cơ sở dữ liệu dân cư của một địa phương nào đó trong cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, công dân cần phải thực hiện các thủ tục đăng ký hộ khẩu, đăng ký tạm trú theo đúng quy định. Nếu vì một lý do nào đó, công dân không thực hiện các thủ tục theo quy định thì họ sẽ không được tính là dân số của địa phương họ đang thực tế thường trú.

     Ví dụ, nhiều người dân đăng ký hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh A, nhưng sau đó, họ chuyển đến tỉnh B sinh sống và làm việc ổn định, thường xuyên. Như vậy, Điều tra dân số ghi nhận là họ là dân số của tỉnh B không phân biệt họ đã hay chưa có hộ khẩu thường trú, đã đăng ký tạm trú hay chưa đăng ký tạm trú ở tỉnh B. Trong khi đó, cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia có thể vẫn ghi nhận những người này ở tỉnh A do họ chưa có giấy tờ đăng ký ở tỉnh B. Điều này dẫn đến sự khác biệt về số liệu dân số quản lý trên giấy tờ nhân thân khác với số liệu dân số trên thực tế tại một địa phương, gây khó khăn cho công tác quản lý và phân bổ nguồn lực thực tế tại địa phương.

          Bên cạnh đó, điều tra dân số không chỉ thu thập thông tin về dân số mà còn thu thập các thông tin về nhà ở của các hộ dân cư cùng với một số chỉ tiêu thống kê quan trọng khác để đánh giá chất lượng cuộc sống của người dân như: Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi chưa được đăng ký khai sinh, trình độ học vấn của dân số, tỷ lệ người dân tộc biết chữ phổ thông, tỷ suất di cư thuần của dân số; tỷ suất sinh, tỷ suất chết, các đặc điểm nhà ở của hộ dân cư… Những chỉ tiêu thống kê này hiện chưa thể tính toán được từ nguồn cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia. Ngoài ra, các thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là thông tin cá nhân, trong khi các thông tin thu thập từ Điều tra dân số là thông tin về cá nhân sống trong một hộ dân cư. Trên thực tế, đặc trưng của mỗi cá nhân bị tác động rất nhiều bởi đặc trưng của hộ, những người sống cùng trong hộ và các điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt của họ. Các nghiên cứu, phân tích và chính sách phần nhiều phải dựa vào hộ dân cư, mà thông tin về hộ và các đặc điểm của hộ thì chưa có được từ cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia.

          Trên tất cả, các thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mang tính pháp lý, bảo mật và riêng tư. Hiện nay, cơ chế chia sẻ để khai thác nguồn dữ liệu này phục vụ công tác thống kê còn đang thiếu, vì vậy khả năng tiếp cận nguồn thông tin này phục vụ các hoạt động nghiên cứu và phân tích của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước còn gặp nhiều hạn chế.

          Chính vì vậy, Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ vẫn nằm trong chương trình Đều tra Thống kê Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ ban hành (theo Quyết định số 03/2023/QĐ-TTg ngày 15 tháng 02 năm 2023). Thực hiện chương trình Điều tra thống kê quốc gia, ngày 14 tháng 7 năm 2023, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã ký Quyết định số 629/QĐ-TCTK ban hành Phương án Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024. Cuộc điều tra này được thực hiện trên phạm vi 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, gồm tất cả các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (ngoại trừ 4 huyện đảo nhỏ là: Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Hoàng Sa, và Trường Sa). Mục đích của cuộc điều tra là:

          Một là, thu thập thông tin về dân số và nhà ở làm cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021 - 2025; xây dựng chính sách, lập kế hoạch dân số và nhà ở phục vụ lập Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2026 - 2030; giám sát thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết. Cần nhấn mạnh rằng thông tin từ Cuộc điều tra này là nguồn dữ liệu quan trọng để báo cáo mục tiêu phát triển bền vững (SDG), có tới 107 trong số 232 chỉ tiêu của mục tiêu phát triển bền vững yêu cầu dữ liệu dân số để tính toán. Gần 20 chỉ tiêu SDG có thể được tính toán trực tiếp và đầy đủ chỉ từ dữ liệu Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2024.
          Hai là, cung cấp số liệu về quy mô dân số đến cấp huyện làm cơ sở rà soát, hiệu chỉnh số liệu dân số hàng năm giai đoạn 2020 - 2024; cập nhật kho dữ liệu dân số và nhà ở do Tổng cục Thống kê quản lý phục vụ nghiên cứu, phân tích và dự báo quá trình phát triển dân số và nhà ở giữa hai kỳ tổng điều tra trên phạm vi cả nước và từng địa phương; đáp ứng yêu cầu so sánh quốc tế.

          Ba là, do quy mô mẫu đủ lớn nên kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2024 sẽ được sử dụng để tiến hành các phân tích chuyên sâu về sự chuyển dịch nhân khẩu học ở Việt Nam, xu hướng già hóa dân số, vấn đề lựa chọn giới tính khi sinh, tình trạng sử dụng nhà ở và điều kiện sống của người dân.

          Một điểm mới trong Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2024 là sẽ thu thập thông tin về người nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam. Mặc dù trên thực tế, số liệu thống kê về người nước ngoài ở Việt Nam đã được nhiều bộ, ngành quản lý và báo cáo, tuy nhiên hiện nay, các số liệu này còn rời rạc và thiếu đồng bộ và chưa được sử dụng để phục vụ hiệu quả công tác quản lý. Việc thu thập thông tin về nhóm người này sẽ là cơ sở để biên soạn các chỉ tiêu thống kê giúp Việt Nam bước đầu có được nguồn số liệu đáng tin cây để đánh giá quy mô, đặc điểm kinh tế - xã hội và các đặc trưng nhân khẩu học về người nước ngoài đang cư trú ở Việt Nam. Từ đó có những chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển bền vững.
       Ngoài ra, trong cuộc điều tra này, Tổng cục Thống kê cũng xây dựng kế hoạch phối hợp với Bộ Công an nghiên cứu tận dụng những số liệu có thể tính toán dựa trên cơ sở dữ liệu dân cư để đối chiếu, so sánh với kết quả thu thập thông tin tại địa bàn trong cuộc điều tra nhằm hoàn chỉnh các nghiên cứu và phương pháp luận, tiến tới khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu hành chính phục vụ công tác thống kê.

          Cuộc điều tra sẽ được thực hiện từ ngày 01/4/2024 đến hết ngày 30/4/2024 tại khoảng gần 40 nghìn địa bàn trong tổng số hơn 200 nghìn địa bàn trên phạm vi cả nước. Đến nay, mọi công tác chuẩn bị cuộc điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ về cơ bản đã hoàn thành, sẵn sàng cho một cuộc điều tra quốc gia quy mô lớn, phạm vi rộng, mức độ tin cậy cao như Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 01/4/2024./.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện

 

21/03/2024

          Tình hình sử dụng thông tin thống kê

          Hiện nay, thông tin thống kê đang ngày càng trở nên quan trọng và nhận được sự quan tâm của người sử dụng tin. Trong tổng số 13.248 người trả lời phiếu điều tra, có 11.326 người đã từng sử dụng thông tin của ngành Thống kê, tương ứng chiếm 85,5%, cao hơn mức 84,7% của cuộc điều tra năm 2020; có 1.432 người chưa sử dụng, chiếm 10,8% và 453 người không nhớ đã sử dụng hay chưa, chiếm 3,4%.
          Tỷ lệ người đã sử dụng thông tin của ngành Thống kê cao nhất ở nhóm đối tượng là công chức, viên chức với 93,0%; tiếp đến là nhóm nhà báo với 89,5%; nhóm nhà nghiên cứu, giáo viên, sinh viên 66,1%; nhóm doanh nhân, nhà đầu tư 57,9%. Các kết quả này đều cải thiện so với kết quả điều tra của năm 2020. Xét theo vị trí công tác, có 98,1% lãnh đạo Bộ, ngành và cấp tỉnh đã sử dụng thông tin của ngành Thống kê; tỷ lệ này của lãnh đạo Cục, vụ, viện và cấp sở là 95,3%; lãnh đạo cấp huyện là 98,3%; lãnh đạo cấp phòng là 93,0%; lãnh đạo doanh nghiệp là 57,8% và các vị trí khác là 81,2%.

          Trong số 1.432 người trả lời chưa sử dụng thông tin của ngành Thống kê, có 18,9% trả lời là do chưa biết có nguồn thông tin này, tập trung chủ yếu ở nhóm đối tượng điều tra là giáo viên, sinh viên và khối doanh nghiệp, nhà báo; 12,9% nêu nguyên do là có nguồn số liệu khác; 9,7% lý do là không tiếp cận được; 0,2% nguyên do là không tin tưởng và 62,8% là do các nguyên nhân khác.
          Về tần suất sử dụng thông tin của ngành Thống kê, có 4,8% số người dùng sử dụng thông tin thống kê theo chu kỳ hàng ngày; 8,2% số người sử dụng theo chu kỳ hàng tuần; 24,9% số người sử dụng theo chu kỳ hàng tháng, 7,7% sử dụng theo chu kỳ hàng quý; 4,7% sử dụng theo chu kỳ hàng năm và có 49,7% số người khi cần thì sử dụng, không theo định kỳ thường xuyên.

          Về mục đích sử dụng thông tin thống kê, có 81,0% người sử dụng thông tin vào việc xây dựng chiến lược, kế hoạch và phân tích đánh giá vĩ mô. Trong đó, lãnh đạo Bộ, ngành và cấp tỉnh sử dụng cho mục đích này chiếm tỷ lệ 98,8%, lãnh đạo Cục, vụ, viện và cấp sở chiếm 93,1%; lãnh đạo cấp huyện chiếm 98,9% và lãnh đạo cấp phòng chiếm 92,6%. Tỷ lệ người sử dụng thông tin thống kê cho mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy là 23,7%, tập trung chủ yếu ở nhóm nhà nghiên cứu, giáo viên, sinh viên (93,0%). Tỷ lệ người sử dụng số liệu thống kê cho mục đích xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh của cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, hộ gia đình là 14,9%, trong đó có 70,9% là lãnh đạo doanh nghiệp, nhà đầu tư. Còn lại 5,8% sử dụng vào các mục đích khác.

          Về nguồn cung cấp thông tin thống kê, trong những người đã sử dụng thông tin thống kê, có 93,7% sử dụng nguồn do ngành Thống kê cung cấp, trong đó 19,2% hoàn toàn và 74,5% chủ yếu do ngành Thống kê cung cấp. Có sự khác biệt về nguồn cung cấp thông tin thống kê giữa các nhóm đối tượng sử dụng. Trong đó, tỷ lệ này của nhóm công chức, viên chức là 95,0%; doanh nhân, nhà đầu tư là 89,6%; nhà báo là 87,7%; nhà nghiên cứu, giáo viên, sinh viên là 87,5% và nghề nghiệp khác là 89,0%; 6,3% số người còn lại chủ yếu tự tìm kiếm thông tin thống kê bằng các nguồn khác để sử dụng.

          Mức độ hài lòng về hoạt động phổ biến thông tin thống kê

          Thời gian qua, việc sản xuất và phổ biến thông tin thống kê đã có nhiều cải thiện đáng kể, điều đó thể hiện qua mức độ hài lòng của người sử dụng thông tin thống kê đạt tỷ lệ khá cao và năm sau đều cao hơn năm trước. Theo đó, có tới 96,7% người dùng tin cho rằng việc tiếp cận thông tin thống kê là dễ dàng và tương đối dễ dàng, cao hơn so với kết quả của cuộc điều tra năm 2020 (94,3%). Tỷ lệ người sử dụng thông tin thống kê cảm thấy hài lòng và tương đối hài lòng với việc phổ biến và cung cấp thông tin thống kê đạt 98,9%, cao hơn 1,6 điểm phần trăm so với năm 2020 và tỷ lệ này khá đồng đều ở các nhóm đối tượng điều tra. Mức độ bình đẳng trong tiếp cận phổ biến, cung cấp thông tin của ngành Thống kê trong những năm qua cũng đã có sự cải thiện rõ rệt với 94,7% người dùng đánh giá đạt mức bình đẳng và tương đối bình đẳng; tăng 5,4 điểm phần trăm so với kết quả năm 2020. Đánh giá chung về hoạt động phổ biến, cung cấp thông tin của ngành Thống kê, có đến 87,7% người dùng cho rằng hoạt động này trong những năm gần đây đã được tăng cường, cao hơn tỷ lệ 83,0% của cuộc điều tra năm 2020.

          Đánh giá về thông tin thống kê

          Đánh giá về tác dụng của thông tin thống kê, có đến 98,5% người dùng tin cho rằng thông tin thống kê rất có tác dụng và có tác dụng, trong đó tỷ lệ này ở nhóm công chức, viên chức là 99,2%; ở nhóm nhà báo là 99,7%; nhóm nhà nghiên cứu, giáo viên, sinh viên là 96,5%; nhóm doanh nhân, nhà đầu tư là 95,1%. Các kết quả này đều cao hơn so với kết quả của cuộc điều tra năm 2020. Về tính kịp thời của thông tin, có 37,7% người dùng tin đánh giá rất kịp thời; 57,7% cho rằng thông tin thống kê tương đối kịp thời và chỉ có 3,6% cho rằng thông tin thống kê chưa kịp thời. Như vậy, tính kịp thời của thông tin thống kê tăng lên đáng kể so với các tỷ lệ tương ứng trong kết quả điều tra năm 2020, lần lượt là 27,3%; 65,4% và 7,3%.
          Bên cạnh đó, nhờ không ngừng nâng cao chất lượng công tác thống kê, từ khâu thu thập đến khâu biên soạn, phân tích, dự báo thống kê với nhiều góc nhìn chuyên sâu, tỷ lệ người dùng đánh giá tính đầy đủ của thông tin ngành Thống kê phổ biến và cung cấp cũng tăng đáng kể. Từ 90,6% người dùng đánh giá thông tin thống kê đầy đủ và tương đối đầy đủ năm 2017 đã tăng lên 94,1% năm 2020 và đạt 95,9% năm 2023. Đồng thời, tỷ lệ đánh giá thông tin thống kê đáng tin cậy và tương đối đáng tin cậy cũng ở mức cao với 99,2% đã phản ánh đúng thực tế chất lượng thông tin thống kê đang ngày càng nâng cao nhờ đổi mới và cập nhật phương pháp thống kê, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các cuộc điều tra.

          Các sản phẩm thông tin thống kê ngày càng tiếp cận gần hơn và nhiều hơn tới các đối tượng sử dụng thông tin thông qua công tác tuyên truyền, giới thiệu về các ấn phẩm của ngành Thống kê. Cụ thể với một số sản phẩm chủ yếu như: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội có 82,2% người dùng tin biết đến; Niên giám thống kê là 90%; Các ấn phẩm phân tích tình hình kinh tế - xã hội nhiều năm là 64,6%; Trang thông tin điện tử của ngành Thống kê là 81,4%. Đối với kết quả các cuộc điều tra thống kê nói chung, có 85,8% người dùng tin biết đến, trong đó mức độ biết cụ thể tới một số cuộc số cuộc điều tra như sau: Có 88,8% biết đến Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019; có 89,9% biết đến Tổng điều tra kinh tế năm 2021; có 73,6% biết đến Điều tra Nông thôn, Nông nghiệp giữa kỳ năm 2020; có 75,7% biết đến Điều tra doanh nghiệp; có 66,4% biết đến Điều tra cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể; có 69,8% biết đến Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình; có 74,2% biết đến Điều tra lao động và việc làm; có 70,0% biết đến Khảo sát mức sống dân cư.

          Đối với các sản phẩm thống kê chủ yếu kể trên, có từ 53-59% người sử dụng thông tin thống kê bày tỏ hài lòng (riêng website là 45,9%). Nếu tính chung mức độ hài lòng và tương đối hài lòng đối với từng sản phẩm thống kê chủ yếu thì tỷ lệ này rất cao, đạt gần 100%; riêng website đạt mức thấp hơn với 99,0%.

          Từ các kết quả kể trên có thể thấy, chất lượng của công tác thống kê nói chung và số liệu thống kê nói riêng không ngừng được nâng lên qua thời gian. Điều này khẳng định, bên cạnh việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào, cần đẩy mạnh công tác phổ biến thông tin thống kê với nhiều sản phẩm và cách thức đa dạng.

          Tiếp tục nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu và triển vọng của người dùng tin

          Thông tin thống kê ngày càng nhận được sự quan tâm và tin tưởng của người dùng tin, vì vậy, có đến 90,2% người dùng khẳng định chắc chắn sẽ tiếp tục sử dụng số liệu của ngành Thống kê trong thời gian tới. Dạng thông tin thống kê được người dùng tin mong muốn nhất là số liệu thống kê đã được tổng hợp thành các bảng, biểu thống kê (chiếm 78%); tiếp theo là các báo cáo có cả lời văn phân tích, hình ảnh và số liệu (68,8%) và 38% muốn có số liệu vi mô. Hình thức số liệu thống kê được thể hiện thành bảng số liệu là hình thức được ưa chuộng nhất với tỷ lệ 84,5%; tỷ lệ ưa thích thể hiện bằng biểu đồ là 53,1%; thể hiện dưới dạng văn bản là 50,0%; dùng đồ họa thông tin là 34,5%; dùng bản đồ là 26,7% và 0,5% thể hiện bằng hình thức khác.

          Người dùng tin thể hiện mối quan tâm nhiều nhất đến số liệu kinh tế tổng hợp (80,9%); tiếp theo đó là số liệu dân số, lao động (58,6%); số liệu lĩnh vực thương mại, dịch vụ, giá (56,2%); công nghiệp, doanh nghiệp (52,9%); nông, lâm nghiệp và thủy sản (48,5%) và các lĩnh vực khác (54,5%). Theo đó, kênh Website của Tổng cục Thống kê tiếp tục là hình thức phổ biến thông tin được ưa chuộng nhất với tỷ lệ 81,5%; thứ hai là hình thức truyền thống như các ấn phẩm được in trên giấy với tỷ lệ ưa thích là 46,6%; thứ ba là hình thức phổ biến qua mạng xã hội với tỷ lệ 35,2%; họp báo, thông cáo báo chí có tỷ lệ ưa thích đạt 23,4%.
          Để tăng cường hoạt động sản xuất, phổ biến thông tin thống kê, trong thời gian tới, ngành Thống kê tiếp tục nghiên cứu, thực hiện các biện pháp nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ và đa dạng hơn nhu cầu của người sử dụng thông tin thống kê. Một số giải pháp chủ yếu tập trung vào:

          Thứ nhất, tăng cường thông tin đầu vào thông qua việc chuẩn hóa, hiện đại hóa công tác thu thập thông tin thống kê; tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin thống kê với Bộ, ngành, địa phương để thu thập đầy đủ, kịp thời số liệu hành chính, cũng như tạo sự thống nhất số liệu thống kê trong hệ thống thống kê Nhà nước.
          Thứ hai, tiếp tục lấy phương châm“Hướng về người dùng tin” làm mục tiêu đẩy mạnh hoạt động sản xuất và phổ biến thông tin thống kê. Bên cạnh việc phát triển các lĩnh vực thống kê mà người dùng tin ưa chuộng trong thời gian tới, ngành Thống kê cần đẩy mạnh hơn nữa công tác phân tích và dự báo thống kê; đặc biệt là những vấn đề có tính thời sự, với nhiều góc nhìn chuyên sâu. Từ đó, cung cấp một bức tranh đầy đủ, toàn cảnh, không chỉ bao gồm số liệu mà có những phân tích chuyên sâu, giúp cung cấp thông tin và định hướng dư luận.
          Thứ ba, đa dạng hóa hình thức phổ biến thông tin. Tăng cường và nâng cao chất lượng các buổi họp báo công bố thông tin thống kê. Chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến Lịch phổ biến thông tin thống kê, kiến thức và pháp luật thống kê cũng như về ngành Thống kê trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát thanh, truyền hình.../.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện

20/03/2024

Đ/c Nguyễn Hùng – Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh – Tổ trưởng Tổ công tác Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 phát biểu khai mạc hội nghị tập huấn

Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ là cuộc điều tra thống kê quan trọng thuộc Chương trình điều tra thống kê quốc gia, được tiến hành vào những năm có số tận cùng là 4, giữa 2 kỳ Tổng điều tra dân số và nhà ở. Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2024 thực hiện theo Quyết định số 03/2023/QĐ-TTg ngày 15/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là lần thứ hai ngành Thống kê tổ chức cuộc Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ với một số thay đổi so với cuộc điều tra được tổ chức năm 2014. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên tiến hành thu thập thông tin phiếu điều tra đối với người nước ngoài đang thường trú trên lãnh thổ Việt Nam.

Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2024 là cuộc điều tra có quy mô mẫu lớn nhất trong các cuộc điều tra mẫu do ngành Thống kê chủ trì thực hiện nhằm các mục đích: (i) Thu thập thông tin về dân số và nhà ở làm cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021 - 2025; xây dựng chính sách, lập kế hoạch dân số và nhà ở phục vụ lập Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2026 - 2030; giám sát thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết. (ii) Cung cấp số liệu về quy mô dân số đến cấp huyện 5 năm sau Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019; làm cơ sở rà soát, hiệu chỉnh số liệu dân số hàng năm giai đoạn 2020 - 2024; cập nhật kho dữ liệu dân số và nhà ở do Tổng cục Thống kê quản lý phục vụ nghiên cứu, phân tích và dự báo quá trình phát triển dân số và nhà ở giữa hai kỳ tổng điều tra trên phạm vi cả nước và từng địa phương; đáp ứng yêu cầu so sánh quốc tế.

Hội nghị tập huấn diễn ra trong 2 ngày 18 và 19/3, với các nội dung giới thiệu Phương án Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024; các phiếu điều tra xác định nhân khẩu thực tế thường trú, thông tin về lịch sử sinh của phụ nữ, thông tin về nhà ở...; hướng dẫn thu thập thông tin phiếu điều tra đối với người nước ngoài; một số lưu ý trong quá trình thu thập thông tin, xử lý và sử dụng số liệu điều tra; hướng dẫn cài đặt và sử dụng phần mềm thu thập thông tin điện tử trên thiết bị di động thông minh (CAPI), sử dụng trang web tác nghiệp điều tra, hướng dẫn thực hành phần mềm điều tra. Hội nghị cũng dành thời gian thảo luận, trao đổi, giải đáp các vướng mắc, vấn đề sẽ phát sinh trong thực tế để sẵn sàng và thực hiện tốt Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ bắt đầu được thực hiện từ ngày 01/4/2024 tới đây.

Toàn cảnh hội nghị tập huấn
Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024

Theo kế hoạch, thời gian thu thập thông tin Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 thống nhất chung trong cả nước là 30 ngày, bắt đầu từ ngày 01/4/2024 và kết thúc vào ngày 30/4/2024.

20/03/2024

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2024

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 5/3/2024 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2024.

         Tại Nghị quyết, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, rà soát kỹ các nhiệm vụ trong tháng 3 và quý I năm 2024 để tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả; kiên định, nhất quán mục tiêu ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, an sinh xã hội và đời sống của Nhân dân theo tinh thần Kết luận số 64-KL/TW ngày 18/10/2023 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII.

          Trong đó, các bộ, cơ quan, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao triển khai hiệu quả Chương trình làm việc năm 2024 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; phối hợp với cơ quan liên quan tổ chức soạn thảo các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, nghị quyết đã được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 6 và Kỳ họp bất thường lần thứ 5 để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành; chuẩn bị kỹ lưỡng các nội dung phục vụ Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, bảo đảm chất lượng, tiến độ, nhất là những vấn đề thể chế, cơ chế, chính sách, quy định mới, thí điểm, đặc thù.

          Đồng thời, chủ động, tích cực phối hợp có hiệu quả với bộ, cơ quan, địa phương liên quan trong quá trình giải quyết công việc. Đối với các hồ sơ, đề án, dự án trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ còn ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan về những nội dung chủ yếu của đề án, nhất là các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan chủ trì phải đề cao trách nhiệm cá nhân, chủ động làm việc trực tiếp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan có ý kiến khác để trao đổi, thống nhất trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo đúng quy định của Quy chế làm việc của Chính phủ nhằm tiết kiệm thời gian và xử lý thấu đáo các vấn đề còn ý kiến khác nhau.

          Thúc đẩy thị trường bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường xuất khẩu lao động

          Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu phục vụ điều hành kinh tế - xã hội để kịp thời có phản ứng chính sách phù hợp, hiệu quả, chủ động, thích ứng với tình hình, xu thế mới và điều chỉnh chính sách của các nước; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác. Theo thẩm quyền hoặc báo cáo đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung ngay những quy định chưa phù hợp với thực tiễn để vừa bảo đảm tính hiệu quả, tuân thủ trong giải quyết công việc, vừa khuyến khích cán bộ, công chức năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

          Theo dõi, bám sát việc triển khai các cơ chế, chính sách đã ban hành, việc thực hiện những nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cấp có thẩm quyền giao để đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc, bảo đảm chất lượng và tiến độ công việc. Kịp thời chỉ đạo lực lượng chức năng rà soát, nắm tình hình, phát hiện những dấu hiệu tiêu cực, bất thường trong thực thi nhiệm vụ, nhất là đối với những lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm, tham nhũng, để xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo đúng quy định của pháp luật, không có ngoại lệ, không có vùng cấm.

          Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng và thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án giao thông chiến lược, quan trọng quốc gia, sân bay, cảng biển, đường cao tốc, dự án liên vùng, liên tỉnh. Thực hiện hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy thị trường bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường xuất khẩu lao động. Chủ động xây dựng kế hoạch, bảo đảm cung ứng đủ điện cho sản xuất kinh doanh. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

          Hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục tình trạng thiếu lao động

          Cùng với đó là thực hiện hiệu quả công tác an sinh xã hội, bảo đảm toàn diện, đa tầng, hiện đại, bao trùm, bền vững. Theo dõi, nắm bắt tình hình lao động để kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục tình trạng thiếu lao động, không để đứt gãy nguồn cung lao động; chú trọng phát triển đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực, ngành, nghề mới, nổi trội (như chip bán dẫn, hydrogen, tín chỉ các bon…), đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

          Tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án 06 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 04/CT-TTg ngày 11 tháng 02 năm 2024 và công tác cải cách thủ tục hành chính; tập trung cấu trúc lại quy trình, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên cơ sở liên thông điện tử, tái sử dụng dữ liệu để cung cấp các dịch vụ công trực tuyến liên thông toàn trình theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tạo sự chuyển biến thực chất trong việc cung cấp dịch vụ công, giảm phiền hà, thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp. Tăng cường chia sẻ cơ sở dữ liệu chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý theo thời gian thực để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan trung ương và địa phương khai thác, phân tích phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, hỗ trợ ra quyết định.

          Triển khai chế độ tiền lương mới kể từ ngày 1/7/2024

          Đồng thời, các bộ, cơ quan, địa phương xây dựng kế hoạch về tăng cường ứng dụng công nghệ số để chuyển đổi số, xây dựng các cơ sở dữ liệu, phát triển các nền tảng số quốc gia, phát triển kinh tế số, quản trị số thuộc phạm vi, lĩnh vực của bộ, ngành, địa phương; tổ chức hội nghị chuyên đề về phát triển kinh tế số trong quý I năm 2024. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về chuyển đổi số từ trung ương đến địa phương theo Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 26 tháng 12 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ. Tích cực tham gia với Bộ Thông tin và Truyền thông sử dụng thí điểm các trợ lý ảo hỗ trợ cán bộ, công chức, phát hiện mâu thuẫn văn bản pháp luật, hỗ trợ pháp lý cho người dân, hỗ trợ thẩm phán.

          Chủ động xây dựng, ban hành các văn bản quy định và thực hiện các công việc cụ thể được giao để triển khai chế độ tiền lương mới kể từ ngày 1/7/2024 theo đúng kết luận của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đúng tiến độ quy định.

          Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư phát triển các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước

          Các bộ, cơ quan, địa phương quán triệt, chỉ đạo người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện có kết quả Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 22/2/2024 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản trị, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư phát triển các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước.

          Tiếp tục cung cấp thông tin chính thức, định hướng cho các cơ quan thông tin, truyền thông; tập trung xử lý những vấn đề dư luận xã hội quan tâm, không để xảy ra khủng hoảng truyền thông. Xây dựng kế hoạch và phân bổ ngân sách đặt hàng các cơ quan báo chí thực hiện truyền thông chính sách theo Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 21/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác truyền thông chính sách.

          Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở vùng ven biển chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công an, Thông tin và Truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền về việc xử lý các vụ việc vi phạm đánh bắt cá trái phép ở vùng biển nước ngoài để nâng cao nhận thức của người dân trong chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo, không theo quy định (IUU).

          Các bộ, cơ quan, địa phương chú trọng triển khai các cam kết, thỏa thuận hợp tác được ký kết trong các hoạt động đối ngoại cấp cao, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kết quả, tiến độ thực hiện và đề xuất giải pháp bảo đảm triển khai thực chất, hiệu quả.

          Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm; triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả thu ngân sách nhà nước, mở rộng cơ sở thu, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và chống thất thu thuế. Rà soát, xem xét ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất… để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tạo công ăn việc làm, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Tăng cường tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, nhất là chi thường xuyên, rà soát, cắt giảm các nhiệm vụ chi chưa thực sự cần thiết.

          Tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng

          Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, kết hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác; điều hành hợp lý giữa tỷ giá và lãi suất phù hợp với tình hình thị trường, diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ. Tiếp tục khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay; rà soát các điều kiện cho vay, đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay thuận lợi, thông thoáng, linh hoạt, khả thi, hợp lý hơn; cơ cấu lại các khoản vay để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng. 

          Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương tập trung thực hiện ngay các giải pháp tổ chức giao thông hợp lý, khoa học, hiệu quả và kiểm soát tốt nhất các hoạt động giao thông để bảo đảm an toàn giao thông trên các tuyến đường bộ cao tốc quy mô phân kỳ, bảo đảm tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhân dân. Phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương rà soát, đầu tư hoàn thiện các tuyến đường gom, nút giao kết nối để phát huy tối đa hiệu quả các tuyến cao tốc đã đưa vào khai thác.

Nguồn: Báo điện tử Chính phủ

 

14/03/2024

          Lương tối thiểu và giá tiêu dùng là hai chỉ tiêu thống kê khác nhau, nhưng cùng liên quan đến mức sống của Nhân dân và biến động của chúng có quan hệ với nhau. Khi lương tối thiểu tăng lên, đời sống của Nhân dân sẽ được nâng lên, kéo theo nhu cầu tiêu dùng tăng lên, hàng hóa tiêu thụ sẽ nhiều hơn, ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu và tất nhiên dẫn đến biến động giá cả hàng hóa tiêu dùng. Ngược lại, khi giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng lên, tức là có yếu tố lạm phát sẽ ảnh hưởng đến mức sống của nhân dân và đó cũng là một trong những yêu cầu để tăng lương tối thiểu.

          Xét về biến động theo thời gian, lương tối thiểu và giá tiêu dùng đều có xu thế chung là tăng lên. Song xét về điều kiện cụ thể, hai chỉ tiêu này có những đặc điểm biến động khác nhau.

          Lương tối thiểu không biến động theo tháng mà thường là biến động theo năm và có thể còn theo nhiều năm; và chỉ có tăng hoặc giữ nguyên chứ không có giảm; còn giá tiêu dùng thì biến động liên tục qua các tháng và có cả tăng lên và giảm đi, nhưng xu thế chung là tăng lên. Với đặc điểm đó, chỉ có thể so sánh biến động của lương tối thiểu và giá tiêu dùng theo khoảng cách thời gian là năm hoặc nhiều năm.

          Dưới đây là việc tính toán so sánh tốc độ tăng lương tối thiểu với tăng giá tiêu dùng của Việt Nam từ năm 2016 đến năm 2023.

          Tính mức lương tối thiểu bình quân một tháng trong năm và chỉ số phát triển về lương tối thiểu

          Từ số liệu về mức lương tối thiểu một tháng có trong các nghị định nâng lương của Chính phủ và thời gian thực tế (tính bằng tháng) áp dụng mức lương đó, bằng phương pháp bình quân cộng gia quyền, ta tính được mức lương tối thiểu bình quân một tháng trong năm (viết gọn là lương tối thiểu bình quân năm) cùng chỉ số phát triển lương tối thiểu qua các năm như Bảng 1.

Bảng 1. Tính mức lương tối thiểu bình quân năm và chỉ số phát triển lương tối thiểu qua các năm

Ghi chú:

- Cột 1 và 3 (mức lương): Lấy số liệu từ các Nghị định nâng lương của chính phủ;

- Cột 2 và 4 (số tháng): Tính theo thời gian thực tế hưởng lương;

- Cột 5 (lương bình quân tháng): Tính từ số liệu các cột 1,2,3 và 4 theo số bình quân cộng gia quyền;

- Cột 6 (chỉ số phát triển lương tối thiểu tính bằng % của năm nghiên cứu) = mức lương năm nghiên cứu: mức lương năm trước liền kề (ở cột 5) x 100.

          Tính tốc độ tăng lương tối thiểu và tốc độ tăng giá tiêu dùng

          Từ số liệu chỉ số phát triển lương tối thiểu (tính được ở cột 6 Bảng 1) và chỉ số phát triển giá tiêu dùng bình quân năm (có trong hệ thống số liệu Thống kê), ta tiếp tục lập Bảng 2 để tính tốc độ tăng lương tối thiểu và tốc độ tăng giá tiêu dùng của Việt Nam qua các năm từ 2016 đến 2023.

Bảng 2. Tính tốc độ tăng lương tối thiểu và tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các năm (%)

Ghi chú:

- Cột 1 và 3 (các chỉ số phát triển):

+ Hàng năm lấy số liệu từ cột 6 bảng 01 và số báo cáo của TCTK.

+ Các dòng bình quân năm là tính bình quân nhân giữa các chỉ số phát triển hàng năm;

- Cột 2 hoặc 4 (tốc độ tăng) = Cột 1 hoặc 3 - 100;

- Cột 5 (chênh lệch tốc độ tăng) = Cột 2 - cột 4.

Nhận xét đánh giá khi so sánh tốc độ tăng lương tối thiểu và tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các năm

         Từ năm 2016 đến năm 2019, sản xuất của Việt Nam khá ổn định, lương tối thiểu luôn tăng cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng và theo xu thế chênh lệch giữa tốc độ tăng lương tối thiểu và tốc độ tăng giá tiêu dùng ngày càng rộng ra (chênh lệch này đạt 0,82% năm 2016; 1,93% năm 2017; 3,63% năm 2018 và 4,27% năm 2019). Đến năm 2020, do bước đầu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, sản xuất có khó khăn hơn nên năm này không thể hiện chính sách quyết định nâng lương nên lương bình quân một tháng trong năm chỉ tăng 3,47%, tuy nhiên vẫn cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng là 0,24% (3,47% - 3,23%). Bình quân năm giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng lương tối thiểu là 5,32%, cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng là 2,17% (5,32% - 3,15%). Tốc độ tăng lương tối thiểu cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng đồng nghĩa với đời sống của Nhân dân được nâng lên.

          Những năm 2021, 2022 Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, phát triển sản xuất càng khó khăn hơn. Theo đó, Nhà nước cũng không thực hiện chính sách quyết định nâng lương tối thiểu, tức là hai năm này có tốc độ tăng lương tối thiểu bằng không, trong khi đó, giá tiêu dùng vẫn tiếp tục tăng lên, nên chênh lệch giữa tốc độ tăng lương tối thiểu và tốc độ tăng giá tiêu dùng đều đạt giá trị âm (chênh lệch năm 2021 là -1,84% và năm 2022 là -3,15%). Đến ngày 01 tháng 7 năm 2023, Chính phủ thực hiện nâng lương tối thiểu lên 1.800 nghìn đồng/tháng nên lương bình quân một tháng trong năm đạt 1.645 nghìn đồng/tháng và tăng hơn năm trước là 10,46%, tăng cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng là 7,21% (10,46% - 3,25%). Bình quân năm giai đoạn 2021 - 2023, tốc độ tăng lương tối thiểu là 3,35%, cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng là 0,61% (3,35% - 2,74%). Tuy nhiên mức chênh lệch này thấp hơn mức chênh lệch bình quân năm giai đoạn 2016 - 2020.

          Tóm lại: Trong thời gian qua ở Việt Nam, hầu hết các năm có tốc độ tăng lương tối thiểu cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng (chênh lệch đạt giá trị dương), chỉ cá biệt có một vài năm có quan hệ ngược lại: Tốc độ tăng lương tối thiểu thấp hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng (chênh lệch đạt giá trị âm); và bình quân năm các giai đoạn 2016 - 2020 và 2021 - 2023 luôn có tốc độ tăng lương tối thiểu cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng; trong đó mức chênh lệch của giai đoạn 2021 - 2023 thấp hơn giai đoạn 2016 - 2020./.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện

06/03/2024

28/02/2024

Năm 2023, tình hình thế giới, trong nước tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, khó khăn hơn so với dự báo, tạo sức ép, tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) của nước ta. Tuy nhiên, với sự vào cuộc, nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng, trở thành điểm sáng của kinh tế toàn cầu.

          Trong thành công chung có sự đóng góp tích cực, quan trọng của doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tổng doanh thu ước thực hiện năm 2023 của DNNN khoảng 1.652 triệu tỷ đồng, vượt 4% kế hoạch năm 2023; lợi nhuận trước thuế khoảng 125,8 triệu tỷ đồng, vượt 8% kế hoạch năm; đóng góp ngân sách nhà nước ước thực hiện khoảng 166 triệu tỷ đồng, vượt 8% kế hoạch năm.

Ảnh minh họa

          DNNN ngày càng thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, chi phối, chủ đạo trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế; góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đóng góp thiết thực vào xây dựng, phát triển KTXH và bảo vệ tổ quốc.
          Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của khu vực DNNN còn bộc lộ một số hạn chế như: Một số DNNN chưa phát huy hết hiệu quả nguồn lực, vốn, tài sản Nhà nước giao, giải ngân vốn đầu tư cả năm 2023 chưa đạt kế hoạch đề ra, một số DNNN hoạt động còn thua lỗ; năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số còn hạn chế; công tác đổi mới quản trị doanh nghiệp còn chậm; chưa có dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn để tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa; tỷ trọng nguồn vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu chưa đạt yêu cầu...

          Năm 2024, dự báo kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục đối mặt với khó khăn, thách thức lớn hơn, nhất là đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh và cũng là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) 5 năm 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nên nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề.

          Để tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy đầu tư phát triển của các DNNN, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KTXH năm 2024, với tinh thần “Kỷ cương trách nhiệm, chủ động kịp thời, tăng tốc sáng tạo, hiệu quả bền vững”, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước và các DNNN tiếp tục phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của DNNN trong nền kinh tế, bảo đảm DNNN là lực lượng tiên phong dẫn đầu trong trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phục hồi nền kinh tế.

          Các bộ, ngành, cơ quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan đại diện chủ sở hữu khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao tại các Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2022; Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 21/4/2023; Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 02/7/2021; Quyết định số 360/QĐ-TTg ngày 17/3/2022 và các văn bản khác liên quan.
          Căn cứ chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, đẩy nhanh tiến độ xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 để gắn chiến lược phát triển của DNNN với phát triển ngành, lĩnh vực nhằm phát huy nguồn lực quan trọng của đất nước.

          Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; kiên quyết cắt giảm thủ tục hành chính, quy định kinh doanh không cần thiết, không phù hợp, thiếu tính khả thi. Chủ động tháo gỡ khó khăn nhằm đẩy nhanh thông quan hàng hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản, thủy sản có tính chất thời vụ.

          Chấn chỉnh, khắc phục triệt để việc né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong thực thi công vụ; đồng thời phải bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, trong đó có lợi ích của người dân, doanh nghiệp.
          Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật liên quan: thị trường trái phiếu doanh nghiệp, quyền sử dụng đất, bất động sản, lao động, khoa học công nghệ, năng lượng... góp phần nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh.

          Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg theo chỉ đạo tại công văn số 9245/VPCP-ĐMDN ngày 24/11/2023; Khẩn trương tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện trình Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 10/2019/NĐ-CP của Chính phủ trong tháng 3 năm 2024, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo tính linh hoạt, chủ động trong hoạt động của các cơ quan đại diện chủ sở hữu và gắn với tăng cường giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước./.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện

27/02/2024

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 650

Tổng số lượt xem: 463646

Bản quyền © 2024 thuộc Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi | Cổng thông tin điện tử Quảng Ngãi

Chịu trách nhiệm nội dung: Võ Thành Nhân - Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Điện thoại: 0255.3822862. Email: quangngai@gso.gov.vn.

Địa chỉ: 19 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

ipv6 ready