Truy cập nội dung luôn
Hệ Thống biều mẫu kèm theo công văn số 193/QĐ-UBND ngày 27 tháng 02 năm 2018 của UBND tỉnh Quảng Ngãi

Hệ Thống biều mẫu kèm theo công văn số 193/QĐ-UBND ngày 27 tháng 02 năm 2018 của UBND tỉnh Quảng Ngãi

12:00 08/03/2018

​Quyết định 193/QĐ-UBND ngày 27 tháng 02 năm 2018 của UBND tỉnh Quảng Ngãi
Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng năm 2017 của Viện Khoa học Thống kê

Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng năm 2017 của Viện Khoa học Thống kê

12:00 20/04/2017

​Ngày 22 tháng 3 năm 2017, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức năm 2017 của Tổng cục Thống kê (Quyết định số 223/QĐ-TCTK). Theo đó Viện Khoa học Thống kê tổ chức 04 lớp đào tạo, bồi dưỡng ghi ở Bảng 1 dưới đây:
 THÔNG BÁO ÔN THI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH THỐNG KÊ NĂM 2016

THÔNG BÁO ÔN THI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH THỐNG KÊ NĂM 2016

12:00 22/09/2016

​Trường Cao đẳng Thống kê II gửi Thông báo về việc tổ chức ôn thi công chức, viên chức ngành Thống kê năm 2016
Xác đinh hộ nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều

Xác đinh hộ nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều

12:00 01/02/2016

​Theo Tuyên bố Liên hợp quốc, tháng 6/2008: “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được đi khám bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa không an toàn, không có quyền và bị loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa là dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong
Những vấn đề cơ bản về chuyển đổi giá so sánh theo gốc mới 2010

Những vấn đề cơ bản về chuyển đổi giá so sánh theo gốc mới 2010

12:00 06/10/2014

​Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công tác thống kê cần phản ánh đúng hơn về giá cả, cơ cấu sản phẩm của nền kinh tế và tính toán các chỉ tiêu thống kê so sánh theo gốc mới 2010 làm cơ sở cho việc lập qui hoạch, xây dựng kế hoạch và đánh giá phát triển KT - XH theo gốc mới. Đồng thời từ yêu cầu hội nhập và so sánh quốc tế nhằm đánh giá quốc tế về năm gốc và nâng tầm thống kê Việt Nam (về Phương pháp luận nói riêng, thống kê Việt Nam nói chung) trên cơ sở có thống kê theo năm gốc mới.
Hướng dẫn tính “Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã”

Hướng dẫn tính “Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã”

12:00 04/10/2014

​Thực hiện Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới;  Căn cứ Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT ngày 04/10/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc Hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; Ngành Thống kê hướng dẫn nội dung, phương pháp tính tiêu chí “Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã” – là tiêu chí thứ 10 trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
Phân biệt Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đầu người với Thu nhập bình quân đầu người

Phân biệt Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đầu người với Thu nhập bình quân đầu người

12:00 12/09/2014

​TS. VŨ THANH LIÊM, Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê. DƯƠNG MẠNH HÙNG, Phó vụ trưởng, Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia, Tổng cục Thống kê. Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người và thu nhập bình quân đầu người là hai trong số 350 chỉ tiêu thống kê quốc gia do Tổng cục Thống kê công bố. Giá trị của hai chỉ tiêu này có xu hướng tăng liên tục qua các năm từ năm bắt đầu thời kỳ đổi mới đến nay. Hai chỉ tiêu thống kê này được sử dụng ngày càng nhiều trong việc đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội, mức sống của dân cư. Tuy nhiên, do một số người sử dụng thông tin thống kê chưa nắm bắt được đầy đủ mục đích, ý nghĩa, khái niệm và phương pháp tính... nên trong khi sử dụng đã bị nhầm lẫn giữa hai chỉ tiêu này.
Giới thiệu nội dung và phương pháp tính chỉ số sản xuất công nghiệp (iip)

Giới thiệu nội dung và phương pháp tính chỉ số sản xuất công nghiệp (iip)

12:00 25/07/2014

​Giới thiệu nội dung và phương pháp tính chỉ số sản xuất công nghiệp (iip) và lộ trình công bố chỉ số iip
Văn bản liên quan đến công tác thống kê

Văn bản liên quan đến công tác thống kê

12:00 18/07/2014

DANH MỤC VĂN BẢN LIÊN QUAN CÔNG TÁC THỐNG KÊ

Unable to display PDF file. Download instead.

20/11/2024

Quang cảnh Hội nghị

Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng ủy khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh đã công bố Quyết định số 3280-QĐ/ĐUK ngày 22/10/2024 của Ban Thường vụ Đảng ủy khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh về việc chuẩn y Bí thư Chi bộ Cục Thống kê Quảng Ngãi, nhiệm kỳ 2020-2025 đối với đồng chí Võ Thành Nhân; Quyết định số 3280A-QĐ/ĐUK ngày 22/10/2024 của Ban Thường vụ Đảng ủy khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh về việc chỉ định bổ sung Ủy viên Ban Chấp hành Chi bộ Cục Thống kê Quảng Ngãi, nhiệm kỳ 2020-2025 đối với đồng chí Trần Thị Thanh Thương và đồng chí Trần Quang Tiến.

Đồng chí Nguyễn Thanh Bình - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng ủy khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, công bố quyết định của BTV Đảng ủy khối về công tác cán bộ
Đồng chí Nguyễn Thanh Dũng - Phó Bí thư Đảng ủy khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh trao quyết định và hoa cho các đồng chí được bổ nhiệm
Đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy khối phát biểu giao nhiệm vụ cho các đồng chí được bổ nhiệm

Phát biểu giao nhiệm vụ, đồng chí Nguyễn Thanh Dũng, Phó Bí thư Đảng ủy Khối chúc mừng các đồng chí được bổ nhiệm trong đợt này. Đồng thời, mong muốn các đồng chí trên cương vị công tác mới phát huy kinh nghiệm, kết quả đạt được trong thời gian qua; tiếp tục có sự phấn đấu tốt hơn, cao hơn, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp chung của ngành Thống kê cũng như của tỉnh nhà; tạo sự đồng thuận, đoàn kết thống nhất ngay từ những ngày đầu; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành nhiệm vụ năm 2024, trong đó, nhiệm vụ trước mắt và quan trọng là triển khai các công việc chuẩn bị cho đại hội Đảng các cấp. Đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy Khối tin tưởng các đồng chí được bổ nhiệm sẽ có nhiều cống hiến, đóng góp hơn nữa để xứng đáng với sự kỳ vọng của Ban Thường vụ Đảng ủy khối.

Đồng chí Võ Thành Nhân - Bí thư Chi bộ, Cục trưởng Cục Thống kê phát biểu

Thay mặt các đồng chí được bổ nhiệm, đồng chí Võ Thành Nhân - Bí thư Chi bộ, Cục trưởng Cục Thống kê trân trọng cảm ơn Ban Thường vụ Đảng ủy khối đã tín nhiệm, tin tưởng, giao nhiệm vụ mới và hứa sẽ phấn đấu rèn luyện, học tập, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng quản lý; góp phần xây dựng tập thể đoàn kết, vững mạnh hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.

31/10/2024

Nhân kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2024) và 14 năm ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10), chiều ngày 18/10/2024, Cục Thống kê Quảng Ngãi tổ chức gặp mặt nữ công chức, người lao động cơ quan.

Tham dự buổi gặp mặt có Bí thư chi bộ, Cục trưởng Cục Thống kê, ông Võ Thành Nhân; bà Trần Thị Thanh Thương, Phó Cục trưởng; Ban chấp hành công đoàn và toàn bộ công chức, người lao động Cơ quan Cục.

Lãnh đạo và công chức, người lao động tham dự tọa đàm

 

Phát biểu tại buổi gặp mặt, Chủ tịch Công đoàn Đinh Nguyên Bảo gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến các đồng chí nữ công chức, người lao động Cơ quan Cục Thống kê và toàn thể nữ công chức, người lao động đang công tác tại các Chi cục của ngành Thống kê Quảng Ngãi; bày tỏ mong muốn trong thời gian đến, các nữ công chức Thống kê tiếp tục phấn đấu rèn luyện, đóng góp to lớn vào sự phát triển của Ngành.

Trong không khí ấm áp của buổi gặp mặt, đồng chí Cục trưởng ghi nhận những nỗ lực, đóng góp của nữ công chức, người lao động Cơ quan Cục trong thời gian qua đã góp phần xây dựng, phát triển Ngành ngày càng vững mạnh. Cục trưởng hy vọng phụ nữ Thống kê tiếp tục trau dồi kiến thức chuyên môn và rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ mới. Đồng thời, chúc các các chị em ngày càng phát huy vai trò, sức mạnh của bản thân hơn nữa để gặt hái được nhiều thành công trong công việc và cuộc sống, xứng đáng với 8 chữ vàng mà Bác Hồ đã dành tặng.

 

Tặng hoa và quà chúc mừng nữ công chức, người lao động Cơ quan Cục

Nhân dịp buổi gặp mặt, nữ công chức, người lao động Thống kê đã cùng nhau ôn lại truyền thống lịch sử 94 năm xây dựng và trưởng thành của Hội LHPN Việt Nam; vai trò của phụ nữ trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước nói chung, ngành Thống kê nói riêng. Qua đó, tiếp tục động viên nhau ra sức thi đua, phát huy vai trò của nữ giới, góp phần hình thành đội ngũ nữ công chức, người lao động ngày càng ưu tú, vừa giỏi việc nước, vừa đảm việc nhà.

Dã ngoại tại bãi biển An Sen - Bình Sơn

 

25/10/2024

Theo đề nghị phối hợp của UBND huyện Mộ Đức về việc hướng dẫn biểu mẫu thu thập thông tin thống kê và phân công thực hiện thu thập thông tin thuộc Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo Quyết định 1297/QĐ-UBND ngày 27/11/2023 của UBND tỉnh Quảng Ngãi và hướng dẫn phương pháp tính chỉ tiêu Tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn huyện, ngày 8/10/2024, Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi đã tiến hành tập huấn theo giấy mời số 458/GM-UBND ngày 04/10/2024 của UBND huyện Mộ Đức.

Tại hội nghị, các báo cáo viên đã truyền tải các nội dung cần thiết về hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp huyện và cấp xã, cũng như hướng dẫn phương pháp tính chỉ tiêu Tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn huyện. Các đại biểu tham gia đã tập trung lắng nghe và tích cực thảo luận về các nội dung được hướng dẫn, các chỉ tiêu thống kê và nghiệp vụ thống kê. Đại diện Cục Thống kê tỉnh đã giải đáp các ý kiến của đại biểu tham dự.

Hội nghị tập huấn được Lãnh đạo UBND huyện Mộ Đức và các đại biểu tham dự đánh giá cao. Qua tập huấn, các đại biểu hiểu rõ hơn về các chỉ tiêu thống kê và nghiệp vụ thống kê. Lãnh đạo UBND huyện Mộ Đức bày tỏ mong muốn trong tương lai vẫn duy trì sự phối hợp tốt giữa ngành Thống kê và UBND huyện trong công tác hướng dẫn nghiệp vụ cũng như công tác thu thập, tổng hợp, kiểm soát số liệu kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.

Một số hình ảnh của hội nghị tập huấn:

 

 

 

09/10/2024

Unable to display PDF file. Download instead.

09/10/2024

Ngày 17/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (Nghị định 13). Cùng với Luật An ninh mạng (Luật số 24/2018/QH14) ngày 12 tháng 6 năm 2018 và văn bản hướng dẫn thi hành đầu tiên là Nghị định số 53/2022/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 2022, Nghị định 13 là văn bản pháp lý thứ ba được ban hành trong kế hoạch của Chính phủ nhằm tăng cường khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động trên không gian mạng. Nghị định 13 quy định chi tiết hơn về nghĩa vụ bảo vệ dữ liệu và an ninh mạng đối với các hoạt động xử lý dữ liệu cá nhân.

Unable to display PDF file. Download instead.

Ngày 17/5/2024, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương đã ký Quyết định số 579/QĐ-TCTK ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân tại Tổng cục Thống kê. Thực hiện kế hoạch, để tổ chức phổ biến, quán triệt nội dung Nghị định 13 với nội dung, hình thức phù hợp cho từng đối tượng đơn vị, cá nhân thuộc ngành Thống kê nói riêng và các đối tượng liên quan nói chung, Tổng cục Thống kê đã biên soạn tài liệu Hỏi - Đáp với 42 câu hỏi và trả lời về Nghị định số 13/2023/NĐ-CP. 

Độc giả có thể tham khảo để hiểu rõ hơn về Nghị định 13/2023/NĐ-CP tại đây:

Unable to display PDF file. Download instead.

07/10/2024

          Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, cho biết, nền nông nghiệp hiện đóng góp khoảng 12% GDP của Việt Nam, cung cấp sinh kế cho khoảng 30% lực lượng lao động. Việc phát triển ngành nông nghiệp không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn đóng vai trò quan trọng trong chương trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân, duy trì ổn định xã hội. Tuy nhiên, trước thách thức về biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu, ô nhiễm môi trường đang diễn ra cấp bách thì việc phát triển xanh, phát bền vững, trong đó có việc chuyển đổi mô hình nông nghiệp là yêu cầu tất yếu giúp chúng ta ứng phó với các thách thức trên.
Thứ trưởng chia sẻ, dự báo khu vực đồng bằng sông Cửu Long (vựa lúa lớn nhất cả nước) sẽ mất từ 500.000 đến 1 triệu ha đất nông nghiệp vào năm 2050 do nước biển dâng, gây thiệt hại hàng năm lên tới 3% GDP. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững và ít phát thải hơn.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc phát biểu tại Hội thảo

          Đổi mới sáng tạo xanh là yếu tố cốt lõi giúp chúng ta ứng phó với các thách thức nêu trên. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã ứng dụng công nghệ cao, công nghệ xanh trong sản xuất nông nghiệp, từ hệ thống tưới nhỏ giọt, công nghệ nhà kính thông minh đến việc sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất. Các mô hình này đã giúp giảm lượng phát thải CO2, tiết kiệm nước và tăng năng suất cây trồng. Việt Nam cũng đang hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Do vậy, để đạt được mục tiêu đề ra rất cần sự chung tay của các bên liên quan và nhà nước đóng vai trò rất quan trọng nhằm xây dựng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi.

          Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, Việt Nam đã có các chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và hiện đang thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu tổng quát là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa với các bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Chiến lược xác định 6 ngành quan trọng trong đó có ngành nông nghiệp bền vững.

          Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành và triển khai nhiều cơ chế, chính sách để thúc đẩy hoạt động phát triển xanh, bền vững, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp như: Quyết định 429/QĐ-TTg ngày 24/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành nông nghiệp đến năm 2030; Quyết định 130/QĐ-TTg ngày 27/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030; Quyết định 157/QĐ-TTg ngày 1/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030... cũng như các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người nông dân đầu tư vào các giải pháp công nghệ xanh.

          Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình và kế hoạch hành động khác nhau nhằm hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi xanh. Trong thời gian tới, Bộ sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế, giải pháp chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp.
          Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho rằng, Hội thảo là dịp để các bên liên quan trao đổi, cập nhật thông tin về thúc đẩy nông nghiệp xanh thông qua cơ chế thị trường; là dịp để các cơ quan quản lý nhà nước lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học. Từ đó, tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách, xây dựng khung pháp lý, tạo hệ sinh thái để thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp.

          Tại Hội thảo, dưới sự chứng kiến của Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc và một số đại biểu tham dự, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) và Hội Trí thức và Chuyên gia Việt - Úc (VASEA) đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác nhằm triển khai các hoạt động hợp tác về đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, phát triển hệ sinh thái gắn với đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu, tư vấn, phát triển sản phẩm và thương mại hóa sản phẩm. Việc ký kết đánh dấu một bước chuyển mới cho quan hệ hai bên, hướng tới thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp tại Việt Nam./.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện
 

 

23/09/2024

Về dự đêm hội, có ông Võ Thành Nhân - Phó Bí thư Chi bộ, Cục trưởng Cục Thống kê; bà Trần Thị Thanh Thương - Phó Cục trưởng Cục Thống kê; ông Đinh Nguyên Bảo - Chủ tịch Công đoàn cơ sở Cục Thống kê; ông Tạ Phạm Hoàng Thiên - Bí thư Chi đoàn Cục Thống kê cùng các bậc phụ huynh và các cháu thiếu niên, nhi đồng là con của công chức, người lao động cơ quan Cục Thống kê.

Tại chương trình, các cháu thiếu nhi được thưởng thức các tiết mục văn nghệ đặc sắc, hấp dẫn; được nghe lời chúc tết Trung thu của Lãnh đạo cơ quan Cục; xem biểu diễn múa lân sôi động và cùng phá cổ trăng rằm. Dịp này, đã trao tặng 24 suất quà cho các cháu là con của công chức và người lao động Cục Thống kê.

Tặng quà cho các em thiếu nhi
Các em thiếu nhi giao lưu văn nghệ
 

Chương trình “Đêm hội trăng rằm” đã tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho các cháu thiếu nhi trong dịp tết Trung thu, đồng thời duy trì các hoạt động truyền thống của dân tộc và động viên, khuyến khích các cháu thiếu nhi cố gắng học tập để đạt kết quả tốt trong năm học mới.

18/09/2024

Để góp phần chăm lo, giúp các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập và chung sức thực hiện chính sách an sinh xã hội tại địa phương, sáng ngày 05 tháng 9 năm 2024, nhân dịp khai giảng năm học mới 2024 - 2025 của trường Tiểu học thị trấn Ba Tơ, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, đồng chí Cao Văn Đào - Bí thư Chi bộ, Chi cục trưởng Chi cục Thống kê Ba Tơ đã đến dự và trao 03 chiếc xe đạp cho 03 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn để tiếp sức cho các em có phương tiện đến trường được thuận lợi; đồng thời, đồng chí cũng trao tiền hỗ trợ chi phí học tập cho em Phạm Văn Bảo, học sinh lớp 4D của Trường, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với mức hỗ trợ 300.000 đồng/tháng và sẽ hỗ trợ xuyên suốt trong 02 năm học 2024 - 2025 & 2025 – 2026 với tổng số tiền quà và tiền hỗ trợ chi phí học tập trong 02 năm học trị giá 10,2 triệu đồng.

Đ/c Cao Văn Đào - Bí thư Chi bộ, Chi cục trưởng Chi cục Thống kê trao xe đạp cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn của trường TH thị trấn Ba Tơ

Toàn bộ số tiền quà và hỗ trợ chi phí học tập giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn được trích từ nguồn kinh phí đóng góp của công chức, đảng viên từ mô hình “Nuôi heo đất ủng hộ học sinh nghèo vượt khó vươn lên trong học tập” của Chi bộ Chi cục Thống kê Ba Tơ.

Món quà tuy không lớn nhưng thể hiện sự quan tâm của Chi bộ trong việc chăm lo đến đời sống của người nghèo. Qua đó, chia sẻ, động viên các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn huyện có thêm động lực để vươn lên trong cuộc sống./.

05/09/2024

Đầu tư là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái cũng như đưa các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vào cuộc sống.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là một trong những chỉ tiêu phản ánh tập trung mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Hệ số ICOR được sử dụng là một số đo hiệu quả đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở nhiều giai đoạn và các nền kinh tế khác nhau. Hệ số ICOR thay đổi tuỳ theo thực trạng kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ khác nhau, phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư và hiệu quả sử dụng đồng vốn. Nếu hệ số ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao và ngược lại ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư kém hiệu quả.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những cơ sở để rà soát và sửa đổi mục tiêu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả về chất lượng sử dụng vốn đầu tư và đảm bảo tăng trưởng bền vững. Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hóa. Thông thường mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, thất thoát nhiều.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được tính theo nhiều phương pháp khác nhau, dưới đây sử dụng phương pháp tính ICOR từ các số tuyệt đối theo công thức sau:

ICOR

 =

V1

G1 - G0

Trong đó:

ICOR : Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư;

V1 : Vốn đầu tư thực hiện của kỳ nghiên cứu;

G1 : Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh của kỳ nghiên cứu;

G0 : Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh của kỳ trước kỳ nghiên cứu.

Các chỉ tiêu về vốn đầu tư thực hiện và GRDP để tính hệ số ICOR được tính theo cùng một giá. Trong bài viết này sử dụng giá so sánh 2010.

Ngày 01 tháng 7 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Khi mới được tái lập tỉnh, Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, công nghiệp không có gì đáng kể, xuất phát điểm về kinh tế - xã hội rất thấp. Sau 35 năm tái lập tỉnh, nền kinh tế của Quảng Ngãi đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế đáng khích lệ, tăng trưởng kinh tế bình quân tăng 8,92%/năm. Quy mô nền kinh tế mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản (NLTS) giảm từ 52,68% (năm 1990) xuống còn 16,08% (năm 2023), ngành công nghiệp - xây dựng (CNXD) từ 16,52% (năm 1990) tăng lên 45,71% (năm 2023).

Kinh tế liên tục tăng trưởng, đặc biệt từ khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá hiện hành đạt 413 tỷ đồng năm 1990, đến năm 2023 đạt 126.934 tỷ đồng, so với năm 1990 quy mô GRDP năm 2023 gấp 307,36 lần. Tính theo giá so sánh, bình quân cả thời kỳ 1991 - 2023, GRDP tỉnh Quảng Ngãi tăng 8,92%/năm.

Từ nguồn số liệu của Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi, kết quả tính toán hệ số ICOR của tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2023 như sau:

Hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 – 2023

Năm

Lượng tăng/giảm GRDP
giá so sánh 2010
(Tỷ đồng)

ICOR

 
 

1991

101

3,06

 

1992

52

8,78

 

1993

221

2,07

 

1994

449

1,33

 

1995

539

1,55

 

1996

629

1,41

 

1997

512

1,94

 

1998

498

4,10

 

1999

454

7,00

 

2000

605

4,22

 

2001

495

7,59

 

2002

851

5,33

 

2003

873

5,75

 

2004

996

6,11

 

2005

1.160

7,56

 

2006

1.475

9,13

 

2007

1.726

15,98

 

2008

1.597

17,46

 

2009

4.874

3,62

 

2010

13.569

1,14

 

2011

1.978

4,71

 

2012

1.364

6,38

 

2013

4.949

1,77

 

2014

-2.980

-3,67

 

2015

3.102

3,80

 

2016

329

40,50

 

2017

613

27,18

 

2018

3.714

8,59

 

2019

2.060

13,53

 

2020

-302

-64,86

 

2021

3.489

4,73

 

2022

4.861

4,30

 

2023

3.030

7,41

 

 

Đồ thị biểu diễn sự biến thiên của hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2023

 

Hệ số ICOR của Quảng Ngãi biến động không ổn định qua các năm. Nếu như năm 1991, hai năm sau tái lập tỉnh, hệ số ICOR của Quảng Ngãi là 3,06, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải đầu tư 3,06 đồng vốn, thì đến năm 2008, hệ số ICOR là 17,46, năm 2016 là 40,50 và năm 2023, con số này là 7,41.

Bảng số liệu và đồ thị biểu diễn trên cho thấy, năm 2010 là năm có hiệu quả dụng vốn hiệu đạt cao nhất khi hệ số ICOR là 1,14, nghĩa là để tạo ra một đồng GRDP chỉ cần đầu tư 1,14 đồng; trong khi đó, năm 2016 là năm hiệu quả sử dụng vốn đạt thấp nhất khi hệ số ICOR là 40,50, nghĩa là để tạo ra một đồng GRDP cần phải đầu tư đến 40,50 đồng. Sở dĩ năm 2010, hệ số ICOR thấp là do cuối năm 2005, Nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu được đầu tư trên địa bàn tỉnh nên GRDP năm 2009 và 2010 tăng khá cao, nghĩa là đầu tư lúc này phát huy tác dụng nên đem lại hiệu quả cao. Năm 2016, đầu tư tăng 13% nhưng GRDP chỉ tăng 0,75% nên hiệu quả đầu tư thấp nhất trong giai đoạn 1991 - 2023 (hai năm 2014 và 2020 tăng trưởng âm nên ICOR không có ý nghĩa).

Hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi phân theo các giai đoạn

 

Phân theo giai đoạn, hệ số ICOR bình quân tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2000 là thấp nhất với 3,03; bình quân giai đoạn 2001 - 2010 là 4,72; bình quân giai đoạn 2011 - 2020 là 10,71 và bình quân giai đoạn 2021 - 2023 là 5,26. Hệ số ICOR giai đoạn 2011 - 2020 là cao nhất, điều này cho thấy giai đoạn 2011 - 2020 hiệu quả sử dụng vốn trên địa bàn tỉnh là thấp nhất trong các giai đoạn, so với giai đoạn 2001 - 2010, để tạo ra một đồng GRDP trong giai đoạn 2011 - 2020 thì cần phải đầu tư tăng hơn 5,99 đồng; giai đoạn này ICOR tỉnh Quảng Ngãi cao hơn cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung.

Giai đoạn 2011 - 2023, hệ số ICOR bình quân tỉnh Quảng Ngãi là 8,35; so với các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung và các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ như sau:

Hệ số ICOR cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung giai đoạn 2011 - 2023

 

Hệ số ICOR các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ giai đoạn 2011 – 2023

 

Nhìn chung, hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi bình quân các năm từ 2011 đến nay đều ở mức cao, cao hơn bình quân chung của cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung cũng như các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ. Sở dĩ hệ số ICOR của Quảng Ngãi giai đoạn này cao là do trong 14 năm, từ năm 2011 đến năm 2023, thì có đến 4 năm Nhà máy lọc dầu Dung Quất tiến hành bảo dưỡng tổng thể (vào các năm 2011, 2014, 2017 và 2020), trong khi sản phẩm lọc hóa dầu chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế của tỉnh, làm cho tăng trưởng GRDP các năm này giảm hoặc đạt rất thấp, dẫn đến tăng trưởng cả giai đoạn đạt thấp (tăng 4,36%).

Bình quân cả thời kỳ 1991 - 2023, hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi là 6,24. Hệ số này được đánh giá là cao, hiệu quả đầu tư còn thấp so với các tỉnh trong khu vực. Nguyên nhân một phần là do nền kinh tế đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng ở miền núi và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội. Các dự án đầu tư công dù thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, song tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí cũng còn nhiều. Cả thời kỳ 1991 - 2023, để GRDP tăng bình quân 8,92%/năm, tỉnh Quảng Ngãi phải tăng vốn đầu tư tới 14,45%/năm, vốn đầu tư vẫn chiếm tới 35,40%/năm GRDP.

Nhìn chung, số liệu về tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP, tốc độ tăng GRDP và chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của tỉnh Quảng Ngãi từ ngày tái lập tỉnh được đánh giá là tương đối cao, sử dụng vốn đầu tư còn chưa hiệu quả; trong đó, giai đoạn 2011 - 2020 là giai đoạn đầu tư kém hiệu quả nhất với tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP là 30,42%/năm nhưng tốc độ tăng GRDP chỉ đạt 3,56%/năm và chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư lên đến 10,71.

30/08/2024

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 1141

Tổng số lượt xem: 833428

Bản quyền © 2024 thuộc Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi | Cổng thông tin điện tử Quảng Ngãi

Chịu trách nhiệm nội dung: Võ Thành Nhân - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Điện thoại: 0255.3822862. Email: quangngai@gso.gov.vn.

Địa chỉ: 19 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

ipv6 ready