Truy cập nội dung luôn
Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi tổ chức Hội nghị tập huấn điều tra Cá thể 2015

Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi tổ chức Hội nghị tập huấn điều tra Cá thể 2015

19:44 25/06/2015

Sáng ngày 24 tháng 6 năm 2015, Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức Hội nghị tập huấn phương án “ Điều tra cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể năm 2015” được ban hành theo Quyết định số 617/QĐ-TCTK ngày 17/9/2015 của Tổng cục Trưởng Tổng cục Thống kê.
Kế hoạch điều tra Cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể năm 2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Kế hoạch điều tra Cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể năm 2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

19:46 01/10/2014

​Thực hiện Quyết định số 876/QĐ-TCTK ngày 27/8/2014 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Về việc điều tra  cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể năm 2014. Cục Thống kê Quảng Ngãi ban hành kế hoạch điều tra để triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh:
Điều tra cá thể 1/10 hàng năm

Điều tra cá thể 1/10 hàng năm

19:48 23/07/2014

​ĐIỀU TRA CÁ THỂ 1/10 HÀNG NĂM

          Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, cho biết, nền nông nghiệp hiện đóng góp khoảng 12% GDP của Việt Nam, cung cấp sinh kế cho khoảng 30% lực lượng lao động. Việc phát triển ngành nông nghiệp không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn đóng vai trò quan trọng trong chương trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân, duy trì ổn định xã hội. Tuy nhiên, trước thách thức về biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu, ô nhiễm môi trường đang diễn ra cấp bách thì việc phát triển xanh, phát bền vững, trong đó có việc chuyển đổi mô hình nông nghiệp là yêu cầu tất yếu giúp chúng ta ứng phó với các thách thức trên.
Thứ trưởng chia sẻ, dự báo khu vực đồng bằng sông Cửu Long (vựa lúa lớn nhất cả nước) sẽ mất từ 500.000 đến 1 triệu ha đất nông nghiệp vào năm 2050 do nước biển dâng, gây thiệt hại hàng năm lên tới 3% GDP. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững và ít phát thải hơn.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc phát biểu tại Hội thảo

          Đổi mới sáng tạo xanh là yếu tố cốt lõi giúp chúng ta ứng phó với các thách thức nêu trên. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã ứng dụng công nghệ cao, công nghệ xanh trong sản xuất nông nghiệp, từ hệ thống tưới nhỏ giọt, công nghệ nhà kính thông minh đến việc sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất. Các mô hình này đã giúp giảm lượng phát thải CO2, tiết kiệm nước và tăng năng suất cây trồng. Việt Nam cũng đang hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Do vậy, để đạt được mục tiêu đề ra rất cần sự chung tay của các bên liên quan và nhà nước đóng vai trò rất quan trọng nhằm xây dựng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi.

          Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, Việt Nam đã có các chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và hiện đang thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu tổng quát là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa với các bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Chiến lược xác định 6 ngành quan trọng trong đó có ngành nông nghiệp bền vững.

          Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành và triển khai nhiều cơ chế, chính sách để thúc đẩy hoạt động phát triển xanh, bền vững, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp như: Quyết định 429/QĐ-TTg ngày 24/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành nông nghiệp đến năm 2030; Quyết định 130/QĐ-TTg ngày 27/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030; Quyết định 157/QĐ-TTg ngày 1/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030... cũng như các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người nông dân đầu tư vào các giải pháp công nghệ xanh.

          Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình và kế hoạch hành động khác nhau nhằm hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi xanh. Trong thời gian tới, Bộ sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế, giải pháp chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp.
          Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho rằng, Hội thảo là dịp để các bên liên quan trao đổi, cập nhật thông tin về thúc đẩy nông nghiệp xanh thông qua cơ chế thị trường; là dịp để các cơ quan quản lý nhà nước lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học. Từ đó, tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách, xây dựng khung pháp lý, tạo hệ sinh thái để thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp.

          Tại Hội thảo, dưới sự chứng kiến của Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc và một số đại biểu tham dự, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) và Hội Trí thức và Chuyên gia Việt - Úc (VASEA) đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác nhằm triển khai các hoạt động hợp tác về đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, phát triển hệ sinh thái gắn với đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu, tư vấn, phát triển sản phẩm và thương mại hóa sản phẩm. Việc ký kết đánh dấu một bước chuyển mới cho quan hệ hai bên, hướng tới thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp tại Việt Nam./.

Nguồn: Tạp chí Con số & Sự kiện
 

 

23/09/2024

Về dự đêm hội, có ông Võ Thành Nhân - Phó Bí thư Chi bộ, Cục trưởng Cục Thống kê; bà Trần Thị Thanh Thương - Phó Cục trưởng Cục Thống kê; ông Đinh Nguyên Bảo - Chủ tịch Công đoàn cơ sở Cục Thống kê; ông Tạ Phạm Hoàng Thiên - Bí thư Chi đoàn Cục Thống kê cùng các bậc phụ huynh và các cháu thiếu niên, nhi đồng là con của công chức, người lao động cơ quan Cục Thống kê.

Tại chương trình, các cháu thiếu nhi được thưởng thức các tiết mục văn nghệ đặc sắc, hấp dẫn; được nghe lời chúc tết Trung thu của Lãnh đạo cơ quan Cục; xem biểu diễn múa lân sôi động và cùng phá cổ trăng rằm. Dịp này, đã trao tặng 24 suất quà cho các cháu là con của công chức và người lao động Cục Thống kê.

Tặng quà cho các em thiếu nhi
Các em thiếu nhi giao lưu văn nghệ
 

Chương trình “Đêm hội trăng rằm” đã tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho các cháu thiếu nhi trong dịp tết Trung thu, đồng thời duy trì các hoạt động truyền thống của dân tộc và động viên, khuyến khích các cháu thiếu nhi cố gắng học tập để đạt kết quả tốt trong năm học mới.

18/09/2024

Để góp phần chăm lo, giúp các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập và chung sức thực hiện chính sách an sinh xã hội tại địa phương, sáng ngày 05 tháng 9 năm 2024, nhân dịp khai giảng năm học mới 2024 - 2025 của trường Tiểu học thị trấn Ba Tơ, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, đồng chí Cao Văn Đào - Bí thư Chi bộ, Chi cục trưởng Chi cục Thống kê Ba Tơ đã đến dự và trao 03 chiếc xe đạp cho 03 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn để tiếp sức cho các em có phương tiện đến trường được thuận lợi; đồng thời, đồng chí cũng trao tiền hỗ trợ chi phí học tập cho em Phạm Văn Bảo, học sinh lớp 4D của Trường, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với mức hỗ trợ 300.000 đồng/tháng và sẽ hỗ trợ xuyên suốt trong 02 năm học 2024 - 2025 & 2025 – 2026 với tổng số tiền quà và tiền hỗ trợ chi phí học tập trong 02 năm học trị giá 10,2 triệu đồng.

Đ/c Cao Văn Đào - Bí thư Chi bộ, Chi cục trưởng Chi cục Thống kê trao xe đạp cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn của trường TH thị trấn Ba Tơ

Toàn bộ số tiền quà và hỗ trợ chi phí học tập giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn được trích từ nguồn kinh phí đóng góp của công chức, đảng viên từ mô hình “Nuôi heo đất ủng hộ học sinh nghèo vượt khó vươn lên trong học tập” của Chi bộ Chi cục Thống kê Ba Tơ.

Món quà tuy không lớn nhưng thể hiện sự quan tâm của Chi bộ trong việc chăm lo đến đời sống của người nghèo. Qua đó, chia sẻ, động viên các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn huyện có thêm động lực để vươn lên trong cuộc sống./.

05/09/2024

Đầu tư là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái cũng như đưa các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vào cuộc sống.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là một trong những chỉ tiêu phản ánh tập trung mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Hệ số ICOR được sử dụng là một số đo hiệu quả đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở nhiều giai đoạn và các nền kinh tế khác nhau. Hệ số ICOR thay đổi tuỳ theo thực trạng kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ khác nhau, phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư và hiệu quả sử dụng đồng vốn. Nếu hệ số ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao và ngược lại ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư kém hiệu quả.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những cơ sở để rà soát và sửa đổi mục tiêu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả về chất lượng sử dụng vốn đầu tư và đảm bảo tăng trưởng bền vững. Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hóa. Thông thường mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, thất thoát nhiều.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được tính theo nhiều phương pháp khác nhau, dưới đây sử dụng phương pháp tính ICOR từ các số tuyệt đối theo công thức sau:

ICOR

 =

V1

G1 - G0

Trong đó:

ICOR : Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư;

V1 : Vốn đầu tư thực hiện của kỳ nghiên cứu;

G1 : Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh của kỳ nghiên cứu;

G0 : Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh của kỳ trước kỳ nghiên cứu.

Các chỉ tiêu về vốn đầu tư thực hiện và GRDP để tính hệ số ICOR được tính theo cùng một giá. Trong bài viết này sử dụng giá so sánh 2010.

Ngày 01 tháng 7 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Khi mới được tái lập tỉnh, Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, công nghiệp không có gì đáng kể, xuất phát điểm về kinh tế - xã hội rất thấp. Sau 35 năm tái lập tỉnh, nền kinh tế của Quảng Ngãi đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế đáng khích lệ, tăng trưởng kinh tế bình quân tăng 8,92%/năm. Quy mô nền kinh tế mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản (NLTS) giảm từ 52,68% (năm 1990) xuống còn 16,08% (năm 2023), ngành công nghiệp - xây dựng (CNXD) từ 16,52% (năm 1990) tăng lên 45,71% (năm 2023).

Kinh tế liên tục tăng trưởng, đặc biệt từ khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá hiện hành đạt 413 tỷ đồng năm 1990, đến năm 2023 đạt 126.934 tỷ đồng, so với năm 1990 quy mô GRDP năm 2023 gấp 307,36 lần. Tính theo giá so sánh, bình quân cả thời kỳ 1991 - 2023, GRDP tỉnh Quảng Ngãi tăng 8,92%/năm.

Từ nguồn số liệu của Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi, kết quả tính toán hệ số ICOR của tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2023 như sau:

Hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 – 2023

Năm

Lượng tăng/giảm GRDP
giá so sánh 2010
(Tỷ đồng)

ICOR

 
 

1991

101

3,06

 

1992

52

8,78

 

1993

221

2,07

 

1994

449

1,33

 

1995

539

1,55

 

1996

629

1,41

 

1997

512

1,94

 

1998

498

4,10

 

1999

454

7,00

 

2000

605

4,22

 

2001

495

7,59

 

2002

851

5,33

 

2003

873

5,75

 

2004

996

6,11

 

2005

1.160

7,56

 

2006

1.475

9,13

 

2007

1.726

15,98

 

2008

1.597

17,46

 

2009

4.874

3,62

 

2010

13.569

1,14

 

2011

1.978

4,71

 

2012

1.364

6,38

 

2013

4.949

1,77

 

2014

-2.980

-3,67

 

2015

3.102

3,80

 

2016

329

40,50

 

2017

613

27,18

 

2018

3.714

8,59

 

2019

2.060

13,53

 

2020

-302

-64,86

 

2021

3.489

4,73

 

2022

4.861

4,30

 

2023

3.030

7,41

 

 

Đồ thị biểu diễn sự biến thiên của hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2023

 

Hệ số ICOR của Quảng Ngãi biến động không ổn định qua các năm. Nếu như năm 1991, hai năm sau tái lập tỉnh, hệ số ICOR của Quảng Ngãi là 3,06, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải đầu tư 3,06 đồng vốn, thì đến năm 2008, hệ số ICOR là 17,46, năm 2016 là 40,50 và năm 2023, con số này là 7,41.

Bảng số liệu và đồ thị biểu diễn trên cho thấy, năm 2010 là năm có hiệu quả dụng vốn hiệu đạt cao nhất khi hệ số ICOR là 1,14, nghĩa là để tạo ra một đồng GRDP chỉ cần đầu tư 1,14 đồng; trong khi đó, năm 2016 là năm hiệu quả sử dụng vốn đạt thấp nhất khi hệ số ICOR là 40,50, nghĩa là để tạo ra một đồng GRDP cần phải đầu tư đến 40,50 đồng. Sở dĩ năm 2010, hệ số ICOR thấp là do cuối năm 2005, Nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu được đầu tư trên địa bàn tỉnh nên GRDP năm 2009 và 2010 tăng khá cao, nghĩa là đầu tư lúc này phát huy tác dụng nên đem lại hiệu quả cao. Năm 2016, đầu tư tăng 13% nhưng GRDP chỉ tăng 0,75% nên hiệu quả đầu tư thấp nhất trong giai đoạn 1991 - 2023 (hai năm 2014 và 2020 tăng trưởng âm nên ICOR không có ý nghĩa).

Hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi phân theo các giai đoạn

 

Phân theo giai đoạn, hệ số ICOR bình quân tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2000 là thấp nhất với 3,03; bình quân giai đoạn 2001 - 2010 là 4,72; bình quân giai đoạn 2011 - 2020 là 10,71 và bình quân giai đoạn 2021 - 2023 là 5,26. Hệ số ICOR giai đoạn 2011 - 2020 là cao nhất, điều này cho thấy giai đoạn 2011 - 2020 hiệu quả sử dụng vốn trên địa bàn tỉnh là thấp nhất trong các giai đoạn, so với giai đoạn 2001 - 2010, để tạo ra một đồng GRDP trong giai đoạn 2011 - 2020 thì cần phải đầu tư tăng hơn 5,99 đồng; giai đoạn này ICOR tỉnh Quảng Ngãi cao hơn cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung.

Giai đoạn 2011 - 2023, hệ số ICOR bình quân tỉnh Quảng Ngãi là 8,35; so với các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung và các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ như sau:

Hệ số ICOR cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung giai đoạn 2011 - 2023

 

Hệ số ICOR các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ giai đoạn 2011 – 2023

 

Nhìn chung, hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi bình quân các năm từ 2011 đến nay đều ở mức cao, cao hơn bình quân chung của cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung cũng như các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ. Sở dĩ hệ số ICOR của Quảng Ngãi giai đoạn này cao là do trong 14 năm, từ năm 2011 đến năm 2023, thì có đến 4 năm Nhà máy lọc dầu Dung Quất tiến hành bảo dưỡng tổng thể (vào các năm 2011, 2014, 2017 và 2020), trong khi sản phẩm lọc hóa dầu chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế của tỉnh, làm cho tăng trưởng GRDP các năm này giảm hoặc đạt rất thấp, dẫn đến tăng trưởng cả giai đoạn đạt thấp (tăng 4,36%).

Bình quân cả thời kỳ 1991 - 2023, hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi là 6,24. Hệ số này được đánh giá là cao, hiệu quả đầu tư còn thấp so với các tỉnh trong khu vực. Nguyên nhân một phần là do nền kinh tế đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng ở miền núi và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội. Các dự án đầu tư công dù thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, song tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí cũng còn nhiều. Cả thời kỳ 1991 - 2023, để GRDP tăng bình quân 8,92%/năm, tỉnh Quảng Ngãi phải tăng vốn đầu tư tới 14,45%/năm, vốn đầu tư vẫn chiếm tới 35,40%/năm GRDP.

Nhìn chung, số liệu về tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP, tốc độ tăng GRDP và chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của tỉnh Quảng Ngãi từ ngày tái lập tỉnh được đánh giá là tương đối cao, sử dụng vốn đầu tư còn chưa hiệu quả; trong đó, giai đoạn 2011 - 2020 là giai đoạn đầu tư kém hiệu quả nhất với tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP là 30,42%/năm nhưng tốc độ tăng GRDP chỉ đạt 3,56%/năm và chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư lên đến 10,71.

30/08/2024

Unable to display PDF file. Download instead.

23/08/2024

Unable to display PDF file. Download instead.

23/08/2024

Tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, điểm đến du lịch thường được khai thác ở những nơi danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, khu vực ven biển…, từ đó, thu hút lượng lớn du khách trong nước và quốc tế đến các địa danh này. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, năm 2023, Việt Nam đón 12,6 triệu lượt khách quốc tế, gấp 3,4 lần năm 2022, vượt xa mục tiêu 8 triệu khách quốc tế đặt ra từ đầu năm. Trong đó, trên 9,8 triệu lượt khách quốc tế đến từ các quốc gia châu Á, gần 1,5 triệu lượt khách đến từ châu Âu, khoảng 900 nghìn lượt khách từ châu Mỹ, còn lại là từ châu Úc và châu Phi. Nhờ các địa phương đã tích cực triển khai nhiều sản phẩm du lịch, hoạt động văn hóa, thể thao nhằm kích cầu du lịch, doanh thu du lịch lữ hành cả nước ước đạt 37,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,6% tổng mức và tăng 52,5% so với năm 2022.

Hiện, Việt Nam có hàng nghìn điểm du lịch, khu du lịch do các địa phương quản lý, trong đó có khoảng 70% các điểm, khu du lịch ở khu vực nông thôn với nguồn tài nguyên đa dạng, có nhiều dư địa phát triển du lịch. Vì vậy, phát triển du lịch nông thôn với các loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch canh nông hiện nay đang trở thành xu thế, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội; giúp lan tỏa lợi ích rộng hơn giữa các vùng và dân cư, làm tăng sức hấp dẫn, phát huy được nhiều nguồn lực và bản sắc văn hóa truyền thống của khu vực nông thôn. Du lịch có thể thúc đẩy phát triển nông thôn với tư cách là công cụ giúp đa dạng hóa kinh tế và chia sẻ lợi ích trong toàn bộ chuỗi giá trị chung cũng như tạo việc làm, bảo vệ môi trường, góp phần tiêu thụ và gia tăng giá trị hàng nông sản, nâng cao đời sống người dân. Ở quy mô địa phương, phát triển du lịch nông thôn được đánh giá là sẽ đem lại nhiều giá trị bền vững, tạo nên mối quan hệ cộng sinh với việc bảo tồn các giá trị thiên nhiên, các hệ sinh thái, đa dạng sinh vật trên cả nước. Du lịch nông thôn không chỉ hỗ trợ nâng cao đời sống của người dân địa phương mà còn mang đến cơ hội phát triển du lịch dựa vào cộng đồng và phát triển kinh tế ở những khu vực hiện đang gặp phải tình trạng thiếu việc làm. Qua đó, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng phi nông nghiệp, giải quyết việc làm, đảm bảo thu nhập, giảm tình trạng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị.

Bên cạnh đó, mô hình du lịch nông thôn không chỉ đem lại sinh kế cho nông dân mà còn góp phần khai thác sức mạnh của du lịch để thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, tạo nguồn lực, thực hiện và hoàn thành các Mục tiêu Phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu về: Không đói nghèo, Bình đẳng giới, Việc làm phù hợp và Tăng trưởng kinh tế, Giảm bất bình đẳng, Tiêu dùng và Sản xuất có trách nhiệm…

Đáng nói là, phát triển du lịch nông thôn tại Việt Nam có nhiều thuận lợi, nhất là khi Chính phủ dành nhiều chính sách ưu đãi, phát triển ngành du lịch kết hợp với thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia… Ngày 22/2/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 263/ QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025. Theo đó, bên cạnh 11 nội dung thành phần, có thêm 6 chương trình chuyên đề chuyên sâu. Đặc biệt, lần đầu tiên đưa du lịch nông thôn trở thành một Chương trình để chỉ đạo thực hiện đồng bộ, mang tính hệ thống trên địa bàn cả nước gắn với xây dựng nông thôn mới. Đây được xem là những định hướng cụ thể để các địa phương Xây dựng kế hoạch đánh thức tiềm năng du lịch nông thôn tại địa phương. Trong tầm nhìn dài hạn, du lịch nông thôn được xác định là một cấu thành của chính sách phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, nằm trong nhóm các định hướng, nhiệm vụ của Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Để đẩy mạnh thu hút khách quốc tế, phục hồi du lịch, tạo động lực cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong năm 2023, Việt Nam triển khai áp dụng cấp thị thực điện tử cho công dân tất cả quốc gia, vùng lãnh thổ với thời hạn tạm trú được nâng từ 30 ngày lên đến 90 ngày và nâng thời hạn tạm trú từ 15 ngày lên 45 ngày cho công dân các nước được miễn thị thực đơn phương. Việc triển khai cấp thị thực điện tử và thời hạn tạm trú cho khách quốc tế tạo điều kiện cho du khách có thời gian thực hiện thêm điểm đến mới, gia tăng trải nghiệm để tìm hiểu văn hóa, truyền thống, bản sắc dân tộc tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Cũng trong năm 2023, Việt Nam vinh dự đón nhận 19 hạng mục Giải thưởng hàng đầu Thế giới và 54 hạng mục Giải thưởng hàng đầu châu Á do Tổ chức Giải thưởng du lịch thế giới (World Travel Awards) trao tặng. Trong đó đáng chú ý, Việt Nam lần thứ 4 được vinh danh là“Điểm đến Di sản hàng đầu thế giới”, lần thứ 5 liên tiếp được bình chọn là “Điểm đến hàng đầu châu Á”. Điều đó góp phần gia tăng sức hút của Việt Nam trong mắt cộng đồng quốc tế, giúp thu hút khách du lịch đến với mọi miền đất nước.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, du lịch nông thôn ở Việt Nam hiện nay dù mang lại lợi ích kinh tế - xã hội đáng kể, nhưng vẫn mang tính tự phát, manh mún, nhỏ lẻ, chủ yếu là khai thác các sản phẩm sẵn có, chưa tạo ra sự độc đáo về văn hóa và giá trị gia tăng sản phẩm. Kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất phụ trợ chưa được đầu tư hoàn chỉnh, chất lượng và tính bền vững chưa cao. Nhiều điểm đến của loại hình du lịch nông thôn gặp khó khăn trong việc kết nối với doanh nghiệp lữ hành để hoàn thiện, xây dựng sản phẩm cũng như thu hút khách du lịch. Chủ thể phát triển du lịch nông thôn phần lớn là các hộ dân địa phương, chưa có sự kết nối, xâu chuỗi, cùng hợp tác hỗ trợ nên vẫn chưa hoàn chỉnh được bức tranh du lịch nông thôn Việt Nam.
Để khắc phục những bất cập trong quá trình phát triển loại hình du lịch nông nghiệp, nông thôn, các chuyên gia cho rằng, cần xây dựng chính sách, cơ chế hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đầu tư, xây dựng, khai thác điểm đến; tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp đăng ký kinh doanh, ưu đãi về vốn và thuế cho những hộ dân, doanh nghiệp tham gia loại hình du lịch nông thôn. Bên cạnh đó, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp lữ hành đưa du khách về khu vực nông thôn; đồng thời đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, cơ sở thu gom và xử lý rác; cần xây dựng bộ tiêu chí điểm đến du lịch nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới qua đó định hướng cho các địa phương đầu tư xây dựng.
Với việc trở thành một cấu phần của Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 922/QĐ-TTg ngày 02/8/2022 trên cơ sở thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông thôn, góp phần hỗ trợ các địa phương thực hiện hiệu quả, bền vững các tiêu chí nông thôn mới. Phát triển du lịch nông thôn theo hướng bền vững, bao trùm và đa giá trị, phù hợp với nhu cầu thị trường trên cơ sở sử dụng hiệu quả, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, làng nghề, các hoạt động nông nghiệp và môi trường sinh thái đặc trưng vùng miền, gắn với chuyển đổi số và đổi mới, sáng tạo. Phát huy vai trò chủ thể của người dân và cộng đồng; thúc đẩy sự tham gia tích cực và chủ động của doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh tế khác vào phát triển kinh tế du lịch nông thôn thông qua các hình thức liên kết chuỗi giá trị du lịch hiệu quả. Mục tiêu nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch nông thôn gắn với phát huy tiềm năng, lợi thế về nông nghiệp, làng nghề, văn hóa và môi trường sinh thái của các địa phương, nhằm nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích hợp đa giá trị, bao trùm và phát triển bền vững.
Theo lộ trình cụ thể, đến năm 2025, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển, chuẩn hoá các điểm đến và sản phẩm du lịch nông thôn; mỗi tỉnh, thành phố phấn đấu có ít nhất 01 điểm du lịch nông thôn được công nhận gắn với lợi thế về nông nghiệp, văn hóa, làng nghề hoặc môi trường sinh thái của địa phương; 50% cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch nông thôn được công nhận đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch. Đẩy mạnh phát triển du lịch nông thôn gắn với quá trình chuyển đổi số; ít nhất 50% điểm du lịch nông thôn được công nhận được số hóa và kết nối trên trang quảng bá, xúc tiến du lịch bằng công nghệ số. Phấn đấu 100% điểm du lịch nông thôn được giới thiệu, quảng bá; 50% điểm du lịch nông thôn ứng dụng các giao dịch điện tử trong hoạt động du lịch. Phấn đấu mỗi huyện nông thôn mới có tiềm năng du lịch xây dựng ít nhất 01 mô hình chuỗi liên kết du lịch nông nghiệp nông thôn đặc thù. Ít nhất 70% chủ cơ sở du lịch nông thôn được đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ quản lý du lịch; 80% lao động du lịch nông thôn được bồi dưỡng, tập huấn và nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng phục vụ khách du lịch, trong đó ít nhất 50% là lao động nữ; mỗi điểm du lịch có ít nhất 01 nhân viên thành thạo ngoại ngữ. Xây dựng cơ sở dữ liệu và bản đồ số các điểm du lịch nông thôn trên toàn quốc.

Các nhóm nhiệm vụ thực hiện mục tiêu tập trung vào: Đầu tư điểm đến du lịch nông thôn; phát triển sản phẩm du lịch nông thôn mang đặc trưng vùng miền; phát triển nguồn nhân lực; xúc tiến quảng bá, truyền thông; xây dựng và triển khai các mô hình thí điểm về phát triển du lịch nông thôn theo hướng du lịch xanh, có trách nhiệm và bền vững. Để thực hiện các nhiệm vụ đó, cần rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển du lịch nông thôn; huy động, lồng ghép và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển du lịch nông thôn; tuyên truyền, quảng bá, nâng cao nhận thức; bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao năng lực cho lao động du lịch nông thôn; ứng dụng công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi số; đồng thời tăng cường phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế về phát triển du lịch nông thôn.

Nguồn Tạp chí Con số & Sự kiện

19/08/2024

          Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

          Chỉ thị nêu rõ: Tình hình kinh tế - xã hội của nước ta 3 tháng đầu năm 2024 tiếp tục phục hồi tích cực, đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, tạo tiền đề quan trọng để phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả năm 2024.

          Tuy nhiên, là một nước đang phát triển, có nền kinh tế đang chuyển đổi, độ mở lớn, nên nước ta đang phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức nhất là các yếu tố bên ngoài. Trong nước, vấn đề tỷ giá, áp lực lạm phát có xu hướng tăng; hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; các thị trường tài chính, tiền tệ cần theo dõi kỹ lưỡng, có giải pháp phù hợp để không làm ảnh hưởng đến hiệu quả cung ứng vốn cho nền kinh tế…

          Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, góp phần thực hiện nhất quán định hướng ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, chú trọng an sinh xã hội; tranh thủ tận dụng tối đa thời cơ, thuận lợi, nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh, nỗ lực vượt qua thách thức để thực hiện cao nhất, tốt nhất, phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu, chỉ tiêu trong năm 2024, nhất là chỉ tiêu về tăng trưởng, kiểm soát lạm phát; Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là các Bộ, cơ quan, địa phương) căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp sau đây:

          Tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế

          Thủ tướng yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, khu vực, việc điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế, các đối tác lớn, nhất là chính sách về tiền tệ, tài khóa, thương mại, đầu tư… Nắm chắc tình hình thị trường, cân đối cung cầu, giá cả hàng hóa để có giải pháp phù hợp, hiệu quả ổn định thị trường, giá, nhất là đối với xăng, dầu, các hàng hóa thiết yếu, nhà ở và lương thực, thực phẩm.

          Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ động phân tích, dự báo, kịp thời cập nhật, tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các phương án, kịch bản chỉ đạo, điều hành phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người dân.

          Tập trung xúc tiến, thu hút các dự án FDI có quy mô lớn, công nghệ cao, nhất là trong phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, bán dẫn, Hydrogen...

          Bộ Tài chính tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, quyết liệt triển khai chuyển đổi số, quy định về hóa đơn điện tử, nhất là đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong thu, chi ngân sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thu, chi ngân sách nhà nước; bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, mở rộng cơ sở thu và chống thất thu thuế, nhất là đối với các dịch vụ kinh doanh ăn uống, nhà hàng, thương mại điện tử, kinh doanh trên các nền tảng xuyên biên giới…; triệt để và cương quyết cắt giảm các khoản chi thường xuyên, các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp bách.

          Thúc đẩy và kiểm soát phát triển lành mạnh, an toàn, hiệu quả các thị trường tài chính, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Khẩn trương triển khai các biện pháp cần thiết để nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi trong năm 2025.

          Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành kịp thời, linh hoạt, hài hòa, hợp lý giữa lãi suất và tỷ giá phù hợp với tình hình thị trường, diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ. Thực hiện nghiêm các quy định tại Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng; chủ động thực hiện kịp thời, hiệu quả các giải pháp, công cụ can thiệp điều hành thị trường vàng trong nước để bảo đảm thị trường vàng cạnh tranh lành mạnh, hoạt động ổn định, công khai, minh bạch, hiệu quả; quản lý, kiểm soát chặt chẽ hoạt động, giao dịch trên thị trường, khắc phục ngay, hiệu quả tình trạng chênh lệch giữa giá vàng miếng trong nước và quốc tế ở mức cao. Kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các trường hợp tiêu cực, buôn lậu, thổi giá vàng. Đồng thời điều tiết kịp thời, hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ của doanh nghiệp, người dân.

          Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt và thu hút mọi nguồn lực xã hội

          Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương khẩn trương phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2024 theo đúng quy định, không để tiếp tục chậm trễ, bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phù hợp với khả năng thực hiện, giải ngân và đúng quy định pháp luật về đầu tư công.

          Quyết liệt giải phóng mặt bằng, giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy tiến độ thi công các dự án, công trình trọng điểm, đẩy nhanh việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia theo tinh thần lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt và thu hút mọi nguồn lực xã hội.

          Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong giải ngân vốn đầu tư công, có chế tài xử lý nghiêm theo quy định đối với các tổ chức, cá nhân cố tình làm chậm tiến độ giao vốn, thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công.

          Bộ Kế hoạch và Đầu tư định kỳ hằng tháng báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tình hình, kết quả và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, các Chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA

          Bộ Tài chính chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thanh, quyết toán, kiểm soát chi để đơn giản hóa, rút ngắn thời gian, thủ tục giải ngân vốn đầu tư công; đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số, thanh toán qua dịch vụ công trực tuyến của Kho bạc Nhà nước.

          Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục theo dõi, kịp thời hướng dẫn triển khai tháo gỡ ngay các khó khăn, vướng mắc, thủ tục liên quan đến khai thác mỏ vật liệu xây dựng, đảm bảo cung ứng đủ vật liệu xây dựng phục vụ các công trình giao thông trọng điểm, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh phía Nam.

          Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước tập trung đổi mới quản trị, tăng cường nghiên cứu phát triển, tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động; đồng thời đẩy mạnh đầu tư phát triển, nhất là các dự án có quy mô lớn, hiệu quả và có sức lan tỏa cao.

          Phát triển thị trường trong nước, mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa chuỗi cung ứng

          Các bộ, cơ quan, địa phương chú trọng phát triển thị trường trong nước, tăng cường xúc tiến thương mại, kích cầu tiêu dùng trên địa bàn, tích cực hưởng ứng Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử.

          Đồng thời, khẩn trương triển khai các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là đối với các thị trường lớn, tiềm năng, phát huy hiệu quả các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã ký kết.

          Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, cơ quan liên quan hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các cam kết trong các FTA đã ký kết; đẩy mạnh đàm phán, ký kết các FTA mới. Thông tin kịp thời cho doanh nghiệp về việc điều chỉnh các chính sách, quy định của các nước về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt là hàng nông sản chủ lực như gạo, cà phê,...

          Đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân

          Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành.

          Tập trung xử lý, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc, nhất là về cơ chế, chính sách ưu đãi, thủ tục pháp lý, mặt bằng, hạ tầng, nguồn nhân lực để tăng cường thu hút đầu tư toàn xã hội, đầu tư theo phương thức đối tác công tư, thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc.

          Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tháng 5 năm 2024 việc gia hạn thời hạn nộp thuế, giảm lệ phí trước bạ ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, giảm tiền thuê đất, mặt nước.

          Bộ Công Thương chủ động có các biện pháp theo thẩm quyền và quy định để đảm bảo cung ứng đủ điện, xăng dầu phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp, tuyệt đối không để thiếu điện, thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung xăng dầu trong mọi tình huống.

          Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục chỉ đạo giảm mặt bằng lãi suất cho vay; chủ động có biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng, tăng khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế hiệu quả, khả thi, kịp thời; thúc đẩy giải ngân gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho vay đối với chủ đầu tư, người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội;

          Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao chủ động chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương triển khai các giải pháp cụ thể phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, hạn chế ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Tiếp tục chủ trì, phối hợp với cơ quan liên quan và các địa phương ven biển đẩy mạnh triển khai các giải pháp về chống khai thác IUU.

          Thực hiện tốt công tác an sinh xã hội

          Thủ tướng giao các bộ, cơ quan, địa phương thực hiện tốt công tác an sinh xã hội; quan tâm hỗ trợ kịp thời người có công, đối tượng chính sách; tổ chức triển khai quyết liệt, hiệu quả Phong trào thi đua "Xóa nhà tạm, nhà dột nát", hoàn thành mục tiêu đề ra trên cả nước trong năm 2025.

          Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai hiệu quả các giải pháp phát triển thị trường lao động; chú trọng đào tạo ngành nghề mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp.

          Tập trung hoàn thiện thể chế, triển khai quyết liệt, hiệu quả các quy hoạch

          Thủ tướng Chính phủ giao các Bộ, cơ quan, địa phương khẩn trương xây dựng, trình, ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các Luật, Nghị quyết đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 6 và Kỳ họp bất thường lần thứ 5, nhất là Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở… bảo đảm chất lượng, tiến độ.

          Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền ban hành trước ngày 30 tháng 4 năm 2024 đối với: (i) cơ chế, chính sách mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện và khách hàng sử dụng điện lớn; (ii) cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời áp mái lắp đặt tại nhà dân, cơ quan công sở, khu công nghiệp tự sản, tự tiêu; (iii) cơ chế, chính sách phát triển điện khí, điện gió ngoài khơi, ven bờ theo đúng chỉ đạo tại Công điện số 38/CĐ-TTg ngày 15 tháng 4 năm 2024.

          Khẩn trương trình Chính phủ Nghị định mới thay thế các Nghị định số 95/2021/NĐ-CP và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu trong tháng 5 năm 2024.

          Triển khai quyết liệt, hiệu quả Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII bảo đảm vững chắc cung ứng đủ điện cho quốc gia và các vùng, miền theo dự báo nhu cầu hàng năm.

          Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng kinh phí thường xuyên ngân sách nhà nước để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã đầu tư xây dựng; mua sắm tài sản; mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị máy móc, trình Chính phủ trong tháng 4 năm 2024 trước khi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

          Tiếp tục xử lý có kết quả các vấn đề tồn đọng, kéo dài

          Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương hoàn thành việc định giá các ngân hàng bắt buộc và phương án chuyển giao bắt buộc các ngân hàng yếu kém, trình Chính phủ xem xét, quyết định

          Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền tập trung triển khai xử lý đối với các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả đã được cấp có thẩm quyền cho chủ trương.

          Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế

          Bộ Quốc phòng thực hiện tốt công tác dự báo, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu, xử lý hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ.

          Bộ Công an chỉ đạo bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội quan trọng của đất nước, hoạt động của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; tăng cường công tác phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm hình sự, ma túy; đẩy nhanh tiến độ công tác điều tra các vụ án do Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo.

          Tăng cường công tác thông tin, truyền thông

          Bộ Thông tin và Truyền thông tập trung chỉ đạo; Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, các cơ quan báo chí làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, nhất là truyền thông chính sách, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin, tạo khí thế, truyền cảm hứng cho người dân, doanh nghiệp; kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; thông tin phản hồi kịp thời những vấn đề dư luận quan tâm; triệt phá, gỡ bỏ, ngăn chặn các thông tin xấu, độc, sai sự thật; xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân vi phạm. Tăng cường thông tin đối ngoại, vận động sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của đất nước.

          Thủ tướng Chính phủ giao các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ theo lĩnh vực được phân công, chủ động chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện hiệu quả Chỉ thị này và xử lý vướng mắc theo thẩm quyền./.

Nguồn: Báo điện tử Chính phủ

19/08/2024

Unable to display PDF file. Download instead.

14/08/2024

Tham dự Hội nghị có ông Võ Phiên, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi; đại diện lãnh đạo một số đơn vị thuộc TCTK; các sở, ban, ngành tỉnh Quảng Ngãi; lãnh đạo phòng, chi cục và công chức cơ quan Cục.

Tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Tuyên, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ TCTK đã công bố quyết định số 391/QĐ-TCTK ngày 02/5/2024 của Tổng cục trưởng TCTK về việc nghỉ hưu để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đối với ông Nguyễn Hùng, Cục trưởng Cục Thống kê Quảng Ngãi kể từ ngày 01/8/2024; Quyết định số 893/QĐ-TCTK của Tổng cục trưởng TCTK bổ nhiệm ông Võ Thành Nhân, Phó Cục trưởng giữ chức vụ Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi kể từ ngày 01/8/2024; Quyết định số 894/QĐ-TCTK bổ nhiệm bà Trần Thị Thanh Thương, Trưởng phòng phòng Thu thập thông tin thống kê giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi kể từ ngày 01/8/2024.

Toàn cảnh Hội nghị

Phát biểu giao nhiệm vụ, Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương chúc mừng hai đồng chí được giao nhiệm vụ mới, đồng thời chúc mừng đồng chí Nguyễn Hùng, Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, ghi nhận và đánh giá cao những thành tích mà đồng chí Nguyễn Hùng đã đóng góp cho Ngành.

Tổng cục trưởng TCTK Nguyễn Thị Hương tặng quà lưu niệm cho Cục trưởng Nguyễn Hùng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

 

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Võ Phiên tặng hoa chúc mừng đồng chí Nguyễn Hùng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

Đối với hai đồng chí mới được bổ nhiệm, thay mặt Lãnh đạo Tổng cục, Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương đề nghị 02 đồng chí cùng tập thể Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:

Tổng cục trưởng TCTK Nguyễn Thị Hương trao quyết định cho Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi

Thứ nhất, với trách nhiệm của người đứng đầu, đồng chí Võ Thành Nhân luôn gương mẫu, tiếp tục phát huy năng lực của bản thân trong công tác chỉ đạo, điều hành cũng như kết nối các thành viên của Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi xây dựng lên tập thể đoàn kết, vững mạnh.

Thứ hai, đồng chí Võ Thành Nhân cần quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn quy hoạch tại chỗ để xây dựng đội ngũ công chức Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi có năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức tốt, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, thử thách khi tổ chức yêu cầu.
 Thứ ba, với cương vị mới, đồng chí Trần Thị Thanh Thương cần nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình để tham mưu, đề xuất với đồng chí Võ Thành Nhân tăng cường công tác phân tích, dự báo thống kê, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thu thập, xử lý thông tin tại Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Cuối cùng, Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương mong tập thể lãnh đạo, công chức, người lao động Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi luôn đoàn kết một lòng xây dựng tập thể vững mạnh, đạt nhiều thành tích tốt trong công tác chuyên môn cũng như phong trào thi đua của Ngành và địa phương.

Ông Võ Phiên, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi tặng hoa chúc mừng các lãnh đạo Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi

Phát biểu chúc mừng và giao nhiệm vụ cho hai đồng chí được bổ nhiệm, đồng chí Võ Phiên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Đồng chí Võ Thành Nhân và đồng chí Trần Thị Thanh Thương là hai cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành, có quá trình phấn đấu lâu năm ở lĩnh vực công tác, tiếp nhận nhiệm vụ mới phải tiếp tục phát huy năng lực, sở trường, nỗ lực rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tham mưu cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác thống kê, phân tích đánh giá số liệu một cách chính xác để giúp tỉnh có những chính sách, quyết định phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

Cục trưởng Võ Thành Nhân phát biểu nhận nhiệm vụ mới

Phát biểu nhận nhiệm vụ, Cục trưởng Cục Thống kê Quảng Ngãi Võ Thành Nhân cảm ơn Lãnh đạo Tổng cục Thống kê đã tín nhiệm, giao nhiệm vụ mới; cảm ơn lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện để Cục Thống kê tỉnh thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Trên cương vị mới, đồng chí sẽ tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, đoàn kết cùng tập thể Cục Thống kê tỉnh hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao./.

01/08/2024

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 2012

Tổng số lượt xem: 802512

Bản quyền © 2024 thuộc Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi | Cổng thông tin điện tử Quảng Ngãi

Chịu trách nhiệm nội dung: Võ Thành Nhân - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Điện thoại: 0255.3822862. Email: quangngai@gso.gov.vn.

Địa chỉ: 19 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

ipv6 ready