Truy cập nội dung luôn

Tin Kinh tế - Xã hội Tình hình kinh tế-xã hội tháng 10 năm 2017

22/10/2017 12:00    634

Tháng 10 năm nay thời tiết tương đối thuận lợi hơn so với cùng kỳ năm 2016, ít mưa và ảnh hưởng của bão, áp thấp nhiệt đới nên sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản diễn ra thuận lợi; các loại hoa màu sinh trưởng, phát triển tốt; trồng rừng được khẩn trương đẩy mạnh; khai thác gỗ (rừng trồng) vẫn duy trì thường xuyên; khai thác và nuôi trồng thủy sản tuy đi vào chu kỳ giảm trong năm nhưng vẫn ổn định ở mức cao.

​1.1. Nông nghiệp    a) Trồng trọt
Vụ hè thu, nhìn chung, người dân đã sử dụng đúng cơ cấu giống lúa được cơ quan chức năng khuyến cáo. Giống lúa sử dụng chủ yếu là trung và ngắn ngày (chiếm trên 95%), như OM 6979, VN121, KD28, KĐ đb, D9H815-6, MT10; giống bổ sung DT45, OM4900, SV181, Thiên ưu 8, PC15; giống triển vọng OM8017, Hương Xuân, Bắc Thịnh, Đài Thơm 8, QNg15, QNg6, QNg11. Việc chuyển đổi diện tích lúa không hiệu quả sang gieo trồng các loại cây khác được các địa phương tiếp tục triển khai.  
Lúa hè thu gieo sạ được 34.267,9 ha, giảm 0,1% (29 ha) so với cùng vụ năm 2016 nhưng nhờ năng suất tăng nên sản lượng tăng 0,5% (953,5 tấn).
Đến nay, đã thu hoạch xong lúa hè thu. Nhờ thời tiết thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển nên năng suất lúa đạt 58,7 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2016; trong đó, năng suất của các huyện đồng bằng đạt 61 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; năng suất của các huyện miền núi đạt 49,4 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha.
Sản lượng lúa đạt 200.993,5 tấn, tăng 953,5 tấn so với vụ hè thu 2016; trong đó, sản lượng lúa của các huyện đồng bằng đạt 167.208,4 tấn, giảm 0,1% (104,6 tấn); sản lượng lúa của các huyện miền núi đạt 33.785,1 tấn, tăng 3,2% (1.058,1 tấn).
Do tính an toàn và hiệu quả kinh tế nên việc canh tác vụ mùa ngày càng ít được chú trọng. Diện tích lúa mùa ước đạt 2253,8 ha, giảm 5,5% (131,8 ha) so với cùng vụ năm 2016. Tính đến giữa tháng 10, có 425,8 ha đã được thu hoạch (huyện Sơn Tây).
Nhìn chung, các loại cây hoa màu không biến động nhiều. Tính đến giữa tháng, gieo trồng được 1.169,9 ha ngô, giảm 1,2% (14,7 ha) so với vụ mùa 2016; khoai lang ước đạt 41,5 ha, giảm 1%; lạc ước đạt 159,7 ha, tăng 0,9% (1,5 ha); đậu tương ước đạt 7 ha, giảm 22,2% (2 ha); rau đạt 2.545,2 ha, tăng 0,5% (13,6 ha); đậu đạt 345,4 ha, giảm 3% (10,6 ha).
Ước tính cả năm, diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đạt 86.097 ha, giảm 33,3 ha so với năm 2016, trong đó diện dích gieo trồng lúa giảm 339,2 ha, nhưng diện tích gieo trồng ngô tăng 305,9 ha. Sản lượng lương thực có hạt ước đạt 499,10 ngàn tấn, tăng 5,0% so với năm 2016.
+ Diện tích gieo trồng lúa cả năm ước đạt 75.433,5 ha, giảm 0,4% so với năm 2016; năng suất ước đạt 58,1 tạ/ha, tăng 3,2 tạ/ha so với năm 2016; sản lượng ước đạt 438,0 ngàn tấn, tăng 5,2% so với năm 2016.
+ Diện tích gieo trồng ngô cả năm ước đạt 10.663,7 ha, tăng 3,0% so năm trước; năng suất ước đạt 57,3 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so năm trước; sản lượng ước đạt 61,10 ngàn tấn, tăng 3,9% so với năm trước.
b) Chăn nuôi
Trong tháng 10, chăn nuôi vẫn chưa có sự chuyển biến tích cực do giá thu mua lợn vẫn ở mức thấp, khó tiêu thụ; giá thịt bò hơi không tăng nên không kích thích phát triển.
Thời tiết trong tháng 10 mưa nắng xen kẽ dễ làm phát sinh các loại dịch bệnh ở gia súc và gia cầm, nhất là các dịch bệnh như dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng gia súc, heo tai xanh. Tuy nhiên, tính đến giữa tháng, ngoài các loại dịch bệnh thông thường phát sinh cục bộ, mức độ thiệt hại không đáng kể, các dịch bệnh nghiêm trọng chưa xảy ra.
Ước tính tại thời điểm 31/10/2017, đàn trâu toàn tỉnh đạt 70.054 con, tăng 1,3% (1.034 con) so với cùng thời điểm năm 2016. Trong 10 tháng, xuất chuồng 846 con trâu, tăng 4,7% so với tháng 10 năm 2016. Tuy nhiên, do xuất chuồng trâu chưa trưởng thành nhiều nên sản lượng thịt hơi đạt 220 tấn, giảm 7,3%. Ước 10 tháng đầu năm 2017, sản lượng thịt trâu xuất chuồng đạt 2.834,67 tấn, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2016 (do xuất chuồng và giết thịt trâu đã trưởng thành nhiều hơn).
Đàn bò toàn tỉnh, ước tính tại thời điểm 31/10/2017 đạt 279.140 con, xấp xỉ cùng  thời điểm năm 2016. Trong tháng 10, xuất chuồng 7.710 con bò với tổng sản lượng thịt hơi đạt 1.552 tấn, tăng 13,2% so với cùng tháng năm 2016. Ước 10 tháng đầu năm 2017, sản lượng thịt bò xuất chuồng đạt 15.922,7 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2016. Sản lượng bò hơi xuất chuồng tăng thấp là do giá thu mua bò trong thời gian đầu năm có xu hướng giảm nhẹ rồi giữ ổn định nên không kích thích phát triển, một số hộ chăn nuôi gặp khó khăn về nơi chăn thả, nguồn thức ăn nên đã tạm nghỉ hoặc giảm đàn.
Đàn lợn tại thời điểm 31/10/2017, ước tính có 401.200 con, giảm 8,2% (35.830 con) so với cùng thời điểm năm 2016. Đàn lợn giảm là do giá thịt lợn hơi giảm sâu làm ảnh hưởng đến thu nhập của người nuôi, dẫn tới hạn chế thả nuôi lại sau xuất chuồng và tăng đàn.
Trọng lượng thịt lợn hơi xuất chuồng trong tháng ước đạt 3.364,1 tấn, giảm 7,8% so với cùng tháng năm 2016. Ước 10 tháng đầu năm, trọng lượng thịt lợn xuất chuồng đạt 36.804,4 tấn, giảm 7% so với cùng kỳ năm 2016.
Đàn gia cầm tại thời điểm 31/10/2017 ước đạt 4.938,5 ngàn con, tăng 5,3% so với thời điểm 31/10/2016; trong đó, đàn gà ước đạt 3.640,4 ngàn con, tăng 8,6%. Trong tháng, ước xuất chuồng 882,18 tấn thịt gia cầm, tăng 14,5% so với cùng tháng năm 2016; trong đó sản lượng thịt gà ước đạt 699,57 tấn, tăng 21,6%. Ước 10 tháng đầu năm, trọng lượng thịt gia cầm xuất chuồng đạt 9.359,68 tấn, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm 2016; trong đó, trọng lượng thịt gà ước đạt 7.422,13 tấn, tăng 21,2%.
Trong 9 tháng đầu năm, tổ chức kiểm tra 54 mẫu đối với chất cấm Salbutamol tại các trang trại chăn nuôi nhưng chưa phát hiện mẫu trường hợp dương tính.
1.2. Lâm nghiệp
Trong tháng, miền núi có mưa đều nên việc trồng rừng được đẩy mạnh. Diện tích rừng trồng tập trung trong tháng ước đạt 2.407 ha, giảm 5,8% (149 ha) so với tháng 10 năm 2016. Ước tính 10 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung đạt 9.664 ha, tăng 20,8% (1.666 ha) so với cùng kỳ năm 2016.
Sản lượng gỗ khai thác trong tháng ước đạt 91.523 m3, tăng 21,5% (16.180 m3) so với tháng 10 năm 2016 (do thời tiết năm nay thuận lợi, việc thu hoạch vẫn duy trì thường xuyên). Ước tính 10 tháng, sản lượng gỗ khai thác đạt 784.226 m3, tăng 7,3% (53.469 m3) so với cùng kỳ năm 2016.
Từ đầu tháng 10 đến nay, không phát sinh cháy rừng và nguy cơ cháy cũng giảm nhờ có mưa đều, nắng nóng giảm. Tính từ đầu năm đến giữa tháng 10, toàn tỉnh xảy ra 02 vụ cháy rừng với tổng diện tích bị cháy là 2,07 ha (rừng trồng), giảm 9 vụ, tương ứng với 11,92 ha so với cùng kỳ năm 2016.
Trong tháng 10, qua tổ chức tuần tra, kiểm tra và truy quét, phát hiện 30 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; trong đó, có 2 vụ phá rừng với diện tích rừng bị phá là 0,6 ha, giảm 18 vụ tương ứng với 3,36 ha so với tháng 10 năm 2016. Tính từ đầu năm, phát hiện 292 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; trong đó, có 22 vụ phá rừng, phát rừng với diện tích 22,3 ha. So với cùng kỳ năm 2016, số vụ phá, phát rừng giảm 37 vụ, tương ứng với 25,4 ha. Trong đó, diện tích rừng phòng hộ (tự nhiên) bị phá là 3,37 ha; diện tích rừng sản xuất (rừng trồng) là 18,96 ha. Tất cả các vụ phá, phát rừng đều nhằm mục đích lấy đất làm nương rẫy (14 vụ) hoặc trồng cây lâu năm (8 vụ). Qua đó, thu giữ 133,1 m3 gỗ tròn và 191,4 m3 gỗ xẻ,…; thu nộp ngân sách Nhà nước 2,35 tỷ đồng.
    1.3. Thủy sản
Trong tháng, mặc dù có bão và áp thấp nhiệt đới trên biển nhưng mức độ ảnh hưởng đến hoạt động khai thác không nhiều. Sản lượng thủy sản tháng 10 ước đạt 18.431,3 tấn, tăng 33,3% (4.608 tấn) so với tháng 10 năm 2016.
Sản lượng thủy sản 10 tháng đầu năm ước đạt 165.752 tấn, tăng 7,8% (11.947,3 tấn) so với cùng kỳ năm 2016.
a) Khai thác
Sản lượng khai thác trong tháng 10 ước đạt 17.596 tấn, tăng 33,5% so với tháng 10/2016 (khai thác trên biển 17.540 tấn, khai thác nội địa 56 tấn). Trong đó, cá đạt 16.394,5 tấn, tăng 36,3% so với cùng tháng năm 2016; tôm đạt 565,2 tấn, tăng 1,1%; các loại thuỷ sản còn lại đạt 636,3 tấn, tăng 7,3%.
Ước tính 10 tháng, sản lượng khai thác đạt 160.118 tấn, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2016 (khai thác trên biển 159.608 tấn, khai thác nội địa 510 tấn). Trong đó, cá đạt 126.680,3 tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2016; tôm đạt 5.722,4 tấn, tăng 6,4%; các loại thuỷ sản còn lại đạt 27.715,3 tấn, tăng 9,6%.
b) Nuôi trồng
Trong tháng, dịch bệnh nuôi trồng thuỷ sản không xảy ra. Ước tính thu hoạch 835,3 tấn thuỷ sản, tăng 30% (193 tấn) so với tháng 10 năm 2016; trong đó, sản lượng cá nuôi đạt 202 tấn, tăng 6,5%; tôm nuôi đạt 630,9 tấn, tăng 43,9%. 
Ước tính 10 tháng đầu năm 2017, toàn tỉnh thả nuôi 1.873,6 ha thuỷ sản các loại, tăng 7,9% (136,4 ha) so với cùng kỳ năm 2016; trong đó, diện tích nuôi tôm đạt 934 ha, tăng 13,3% (tôm sú đạt 54 ha, tăng 13,4%; tôm thẻ chân trắng đạt 880 ha). Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng thu hoạch ước đạt 5.634 tấn, tăng 5,5% (291,3 tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng cá đạt 1.450,5 tấn, giảm 9,1%; tôm đạt 3.965,7 tấn, tăng 14,2% (tôm sú ước đạt 99,1 tấn tăng 24,3%; tôm thẻ chân trắng ước đạt 3.866,6 tấn, tăng 14%); ốc hương đạt 171 tấn, tăng 8,9%. 
- Sản xuất giống: Sản xuất giống ngày càng suy giảm (chủ yếu do hạn chế về kỹ thuật). Ước tính 10 tháng đầu năm, sản xuất được 1.350 ngàn con giống tôm chân trắng; 414 ngàn cá giống nước ngọt; 5 triệu con giống ốc hương.
    2. Sản xuất công nghiệp
Ước tính giá trị sản xuất tháng 10 năm 2017 đạt 9.721,4 tỷ đồng (theo giá SS 2010), giảm 3,5% so với tháng trước, nguyên nhân giảm chủ yếu do tháng này sản lượng sản phẩm lọc hóa dầu giảm 34,5 ngàn tấn. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt 8.015,1 tỷ đồng, giảm 5,3%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.245,8 tỷ đồng, tăng 3,2% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 460,5 tỷ đồng, tăng 15,6%. Nếu so với cùng kỳ năm trước thì GTSX tháng này tăng 6,9%.
Tính chung 10 tháng đầu năm, GTSX công nghiệp đạt 83.377,2 tỷ đồng (theo giá SS 2010), giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước, nếu không tính sản phẩm lọc hóa dầu thì GTSX tăng 10,48%. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt 68.317,7 tỷ đồng, giảm 11,7%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 11.999,3 tỷ đồng, tăng 10,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3.060,3 tỷ đồng, tăng 20,2%.
Trong 10 tháng đầu năm, đa số các sản phẩm chủ yếu đều tăng. Trong đó, một số sản phẩm tăng khá so với cùng kỳ 2016 như: Thủy sản chế biến đạt 8.825 tấn, tăng 12,7%; đường RS đạt 139.344 tấn, tăng 26,5%; quần áo may sẵn đạt 11.232 ngàn cái, tăng 8,5%; Gạch xây các loại đạt 389.090 ngàn viên, tăng 9,3%; gạch lát đạt 134 ngàn m2, tăng 9,8%; nước khoáng và nước tinh khiết đạt 67.078 ngàn lít, tăng 6,8%; sữa các loại đạt 217.926 ngàn lít, tăng 7,8%; dăm gỗ nguyên liệu giấy đạt 537.329 tấn, tăng 5,0%; điện sản xuất đạt 565,01 triệu kwh, tăng 66,5% và điện thương phẩm đạt 858,94 triệu kwh, tăng 11,5%. Riêng sản phẩm lọc hóa dầu đạt 4.987,6 ngàn tấn, giảm 12,2% (hay giảm 693,9 ngàn tấn) so với cùng kỳ năm trước.
    Chỉ số tiêu thụ dự tính của ngành công nghiệp chế biến tính đến hết tháng 10/2017 giảm 0,75% so với tháng trước. Có 08/17 nhóm sản phẩm tiêu thụ tốt hơn hoặc xấp xỉ cùng kỳ năm trước, trong đó có một số nhóm sản phẩm có mức tiêu thụ cao như: Nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột tăng 127,27%; nhóm sản phẩm từ ngành may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú)  tăng 22,13%; nhóm sản phẩm từ ngành cưa, xẻ, bào gỗ và bảo quản gỗ tăng 43,06%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sắt, thép, gang tăng 37,83%. Trong 09/17 nhóm sản phẩm tiêu thụ thấp hơn tháng trước, có 03 nhóm sản phẩm có mức tiêu thụ thấp nhất là: Nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh mức tiêu thụ giảm 14,42% so với tháng trước; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sản phẩm từ plastic mức tiêu thụ giảm 16,54%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất các cấu kiện kim loại mức tiêu thụ giảm 57,93%.
    Chỉ số tồn kho dự tính tại thời điểm 01/11/2017 của ngành công nghiệp chế biến giảm 6,25% so với cùng thời điểm tháng trước. Trong 11/17 nhóm sản phẩm có mức tồn kho cao hơn hoặc bằng tháng trước, trong đó nhóm sản phẩm có mức tồn kho cao là: Nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột tăng 24,47%;  nhóm sản phẩm từ may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 65,35%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 44,18%; nhóm sản phẩm từ ngành sản xuất sản phẩm điện tử tăng 52,72%.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 31/10/2017 tăng 0,55% so với cùng thời điểm tháng trước. Chỉ số sử dụng lao động thuộc khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,25% so với cùng thời điểm tháng trước; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,54%; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 1,12%. Tại thời điểm trên, chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp khai khoáng tăng 0,55% so với cùng thời điểm tháng trước; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,59%; sản xuất, phân phối điện không tăng, không giảm; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,28%.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, chỉ có ngành dệt có chỉ số sử dụng lao động tại thời điểm 31/10/2017 tăng khá so với cùng thời điểm tháng trước với mức tăng 9,97%, các ngành khác tăng, giảm nhẹ.
3. Đầu tư và xây dựng
                Trong 10 tháng đầu năm 2017, điều kiện thời tiết thuận lợi cho công tác thi công xây lắp. UBND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị quản lý chặt chẽ, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí trong lĩnh vực đầu tư công, chú trọng công tác quyết toán và trả nợ dự án hoàn thành; không làm phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản theo quy định của Luật đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ xây dựng và giải ngân vốn đầu tư. Tuy nhiên, đến nay tiến độ và kết quả giải ngân vốn đầu tư còn chậm, tồn tại nhiều vấn đề cần tiếp tục tập trung giải quyết. UBND tỉnh yêu cầu các Ban quản lý dự án đầu tư: Giao thông; Dân dụng; Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm rà soát, đánh giá năng lực quản lý, điều hành của Ban quản lý dự án, tập trung phấn đấu thực hiện giải ngân đạt 100% kế hoạch vốn đầu tư được giao trong năm 2017.
                Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý trong tháng ước đạt 285,3 tỷ đồng, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 214,7 tỷ đồng, tăng 34,2%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 66,9 tỷ đồng, tăng 38,2%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã đạt 3,8 tỷ đồng, tăng 87,6%. Nếu so với tháng trước thì vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý tăng 1,07%.
Tính chung 10 tháng đầu năm 2017, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 2.616,6 tỷ đồng, tăng 30,1% so cùng kỳ năm 2016. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 1.968,4 tỷ đồng, tăng 30,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 614,7 tỷ đồng, tăng 28,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã đạt 33,6 tỷ đồng, tăng 51,4%. 
4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng (tính đến ngày 20/10/2017), toàn tỉnh có 47 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới  với số vốn đăng ký là 339,9 tỷ đồng, tăng 80,8% về số doanh nghiệp và tăng 219,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng có 01 doanh nghiệp  đăng ký tạm ngừng hoạt động và có 04 doanh nghiệp  đã giải thể.
 Luỹ kê từ đầu năm, toàn tỉnh có 594 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới  với số vốn đăng ký là 13.194,54 tỷ đồng, tăng 13,36% về số doanh nghiệp và tăng 250,1%  về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 22,21 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong thời gian trên có 115 doanh nghiệp   đăng ký tạm ngừng hoạt động và có 67 doanh nghiệp   đã giải thể.
                5. Thương mại, dịch vụ, giá cả
    5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 10 năm 2017 ước đạt 3.948,2 tỷ đồng, tăng 0,87% so với tháng trước. Trong đó: thành phần kinh tế nhà nước đạt 231 tỷ đồng, tăng 1,34%; kinh tế cá thể đạt 2.855,5 tỷ đồng, tăng 0,92%; kinh tế tư nhân đạt 858,6 tỷ đồng, tăng 0,59%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,9 tỷ đồng.
            Tính chung 10 tháng đầu năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 38.727,8 tỷ đồng, tăng 11,87% so với cùng kỳ năm 2016, đáng chú ý có 03 nhóm hàng hóa lượng tiêu thụ tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước là gỗ và vật liệu xây dựng tăng 16,17%; ô tô các loại tăng 439,7%; xăng dầu các loại tăng 17,02%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng thì thành phần kinh tế nhà nước đạt 2.207,3 tỷ đồng, tăng 13,33%; kinh tế cá thể đạt 27.729,1 tỷ đồng (chiếm 72,45% trong tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng), tăng 11,67%; kinh tế tư nhân đạt 8.306,4 tỷ đồng, tăng 12,07%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xét theo ngành hoạt động thì hoạt động thương nghiệp đạt 28.387,1 tỷ đồng (chiếm 74,17% trong tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng), tăng 11,87%; hoạt động lưu trú đạt 239,6 tỷ đồng, tăng 19,63%; hoạt động ăn uống đạt 6.992,2 tỷ đồng, tăng 14,17%; hoạt động du lịch lữ hành đạt 6,9 tỷ đồng, tăng 18,66%; hoạt động dịch vụ đạt 2.646,9 tỷ đồng, tăng 16,14%.
        5.3. Chỉ số giá tiêu dùng
    Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2017 tương đối ổn định, chỉ tăng 0,05% so với tháng trước, tăng 2,68% so với tháng 10/2016, tăng 1,74% so với tháng 12 năm 2016; bình quân 10 tháng đầu năm so với bình quân cùng kỳ năm trước tăng 6,45%.
    Trong tháng, đa số các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá ổn định. Có 03/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ tăng, gồm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,18%; nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,06%; giao thông tăng 0,94%. Có 05/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá giảm, gồm: đồ uống và thuốc lá giảm 0,66%; may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,35%%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,14%%; văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,77%; hàng hoá và dịch vụ khác giảm 0,76%. Có 03/11 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại có chỉ số không tăng, không giảm, gồm: thuốc và dịch vụ y tế; bưu chính viễn thông; giáo dục.
         Chỉ số giá vàng tháng 10/2017 giảm 1,20% so với tháng trước; tăng 6,17% so với tháng 12/2016; tăng 1,33% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 10 tháng tăng 3,24%. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 10/2017 giảm 0,01% so với tháng trước; tăng 0,15% so với tháng 12/2016; tăng 1,87% so với cùng kỳ năm 2016; bình quân 10 tháng tăng 1,74%.
                6. Hoạt động vận tải
Trong tháng, ngành Giao thông vận tải chỉ đạo triển khai thực hiện kịp thời, nghiêm túc các quy định của Chính phủ, Bộ GTVT về công tác quản lý vận tải, trình UBND tỉnh ban hành Quy chế quy định việc phối hợp thực hiện trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông, tìm kiếm, cứu nạn trong hoạt động vận tải đường thủy nội địa tại cảng, bến và trên luồng tuyến vận tải Sa Kỳ - Lý Sơn và tuyến Đảo Lớn – Đảo Bé. Hoạt động vận tải trong thời gian qua đáp ứng được nhu cầu của xã hội, chất lượng dịch vụ vận tải tiếp tục được cải thiện.
- Vận tải hành khách trong tháng 10 năm 2017 ước đạt 515,72 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 111.606,64 ngàn lượt khách-km, tăng tương ứng 18,3% và 4,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hành khách bằng đường bộ ước đạt 491,52 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 110.880,43 ngàn lượt khách-km; vận tải hành khách bằng đường thủy ước đạt 24,2 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 726,21 ngàn lượt khách- km.
Tính chung 10 tháng đầu năm 2017, vận chuyển hành khách ước đạt 4.815,94 ngàn lượt khách với mức luân chuyển 1.093.929,67 ngàn lượt khách – km, tăng tương ứng 18,4% và 13,0% so với cùng kỳ năm 2016, bao gồm: Vận tải đường bộ ước đạt 4.596,71 ngàn lượt khách, tăng 18,4% và 1.087.345,39 ngàn lượt khách – km, tăng 13,0%; đường thủy ước đạt 219,23 ngàn lượt khách, tăng 17,5% và 6.584,28 ngàn lượt khách – km, tăng 17,3%.
                - Vận tải hàng hóa trong tháng 10 năm 2017 ước đạt 918,3 ngàn tấn với mức luân chuyển 144.815,5 ngàn tấn-km, tăng tương ứng 18,44% và 20,66% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hàng hóa bằng đường bộ ước đạt 907,25 ngàn tấn với mức luân chuyển 144.512,97 ngàn tấn-km; vận tải hàng hóa bằng đường thủy ước đạt 11,01 ngàn tấn với mức luân chuyển 302,51 ngàn tấn- km.
Tính chung 10 tháng đầu năm 2017, vận tải hàng hóa ước đạt 8.478,1 ngàn tấn với mức luân chuyển 1.344.931,7 ngàn tấn-km, tăng tương ứng 13,26% và 11,21% so với cùng kỳ năm 2016, bao gồm: Vận tải đường bộ ước đạt 8.381,46 ngàn tấn, tăng 13,19% và 1.342.057,13 ngàn tấn – km, tăng 11,2%; đường thủy ước đạt 96,64 ngàn tấn, tăng 19,41% và 2.874,6 ngàn tấn – km, tăng 17,03%.
- Doanh thu vận tải và các hoạt động dịch vụ vận tải trong tháng 10 năm 2017 ước đạt 239,0 tỷ đồng, tăng 12,97% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng đầu năm 2017, doanh thu vận tải và các hoạt động dịch vụ vận tải ước đạt 2.275,2 tỷ đồng, tăng 10,21% so với cùng kỳ năm 2016, bao gồm: Vận tải hành khách ước đạt 670,6 tỷ đồng, tăng 14,93%; vận tải hàng hóa ước đạt 1.129,4 tỷ đồng, tăng 10,53%; hoạt động kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 475,2 tỷ đồng, tăng 3,5%.
    7. Thu, chi ngân sách nhà nước
a) Thu ngân sách nhà nước
* Thu cân đối ngân sách nhà nước trên địa bàn:
Ước thu cân đối ngân sách nhà nước trên địa bàn 10 tháng đầu năm 2017  đạt 11.677,6  tỷ đồng, bằng 80,68% so với cùng kỳ năm trước và đạt 96,55% dự toán năm, gồm:
    - Thu nội địa tháng ước đạt 11.017,6 tỷ đồng, bằng 79,69% so với cùng kỳ năm trước và đạt 96,01% dự toán năm, trong đó:
    + Thu từ DNNN do Trung ương quản lý ước đạt 8.198,14 tỷ đồng, bằng 75,79% so cùng kỳ năm trước và đạt 106,53% dự toán năm. Trong đó, thu từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất ước đạt 7.724,41 tỷ đồng, bằng 77,97% so với cùng kỳ năm trước và đạt 117,11% dự toán năm.
    + Thu từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN ước đạt 236,12 tỷ đồng, bằng 141,0% so cùng kỳ năm trước và đạt 94,11% dự toán năm.
    + Thu từ khu vực công thương nghiệp, dịch vụ ngoài nhà nước ước đạt 1.079,28 tỷ đồng, bằng 103,57% so cùng kỳ năm trước và đạt 69,69% dự toán năm.
    + Thuế bảo vệ môi trường ước đạt 413,84 tỷ đồng, bằng 76,68% so cùng kỳ năm trước và đạt 89,38% dự toán năm.
    + Thu tiền sử dụng đất ước đạt 382,15 tỷ đồng, bằng 72,99% so với cùng kỳ năm trước và đạt 69,48% dự toán năm.
    - Thu hoạt động xuất nhập khẩu ớc đạt 660 tỷ đồng, bằng 101,84% so với cùng kỳ năm trước và đạt 106,45% dự toán năm.
* Thu để lại quản lý qua ngân sách nhà nước 10 tháng đầu năm ước đạt 25,24 tỷ đồng, bằng 159,55% so với cùng kỳ năm trước và đạt 50,48% dự toán năm.
b) Chi ngân sách địa phương
* Chi cân đối ngân sách địa phương 10 tháng đầu năm 2017 ước đạt 7.964,76 tỷ đồng, bằng 114,05% so với cùng kỳ năm trước và đạt 70,86% so với dự toán năm 2017. Trong đó:
    - Chi đầu tư phát triển ước đạt 2.231,19 tỷ đồng, bằng 133,75% so với cùng kỳ năm trước và đạt 62,65% so với dự toán năm 2017.
    - Chi thường xuyên ước đạt 5.732,43 tỷ đồng, bằng 107,86% so với cùng kỳ năm trước và đạt 76,71% so với dự toán năm 2017.
    * Chi từ nguồn thu để lại quản lý qua ngân sách nhà nước 10 tháng ước đạt 10 tỷ đồng, bằng 63,22% so với cùng kỳ năm trước và đạt 20% so với dự toán năm 2017.
    8. Một số vấn đề xã hội
    8.1. Tình hình dịch bện, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng trên địa bàn tỉnh có 107 ca mắc sốt xuất huyết, phân bố theo huyện (mắc/chết): Bình Sơn 14/0,  Sơn Tịnh 8/0, TP Quảng Ngãi 51/0, Tư Nghĩa 16/0 , Mộ Đức 5/0,Đức Phổ 2, Nghĩa Hành 8/0, Trà Bồng 1/0, Sơn Hà 1/0, Minh Long 1/0. Phát hiện trong tháng 08 ca sốt rét; 146 ca mắc bệnh tay chân miệng (phân bổ theo huyện: Bình Sơn 30, Sơn Tịnh 31, TP Quảng Ngãi 34, Tư Nghĩa 25, Nghĩa Hành 5, Mộ Đức14, Đức Phổ 2, Trà Bồng 1, Sơn Hà 2, Sơn Tây 2).  Thủy đậu : 6 ca chết 0; Quai bị : 12 ca chết 0. Viêm não vi rút: 1 ca chết 0.
Bệnh nhân AIDS mới đưa vào điều trị trong tháng 01 ca. Tổng số bệnh nhân AIDS đang được điều trị là: 257 ca.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng không có ngộ độc thực phẩm xảy ra.
8.2. Tình hình tai nạn giao thông
Tình hình tai nạn giao thông trong tháng (tính từ ngày 16/9/2017 đến 15/10/2017), toàn tỉnh đã xảy ra 05 vụ TNGT (các vụ có hậu quả từ ít nghiêm trọng trở lên), chết 05 người, bị thương 04 người. Trong đó TNGT đường bộ xảy ra 04 vụ, chết 04 người, bị thương 04 người; TNGT đường sắt xảy ra 01 vụ, chết 01 người; TNGT đường thủy nội địa không xảy ra.
 So với tháng 10/2016, TNGT đường bộ: số vụ giảm 08 vụ (66,67%), số người chết giảm 08 người (66,67%), số người bị thương giảm 04 người (50%); TNGT đường sắt: số vụ tăng 01 vụ, số người chết tăng 01 người; TNGT đường thủy nội địa: không xảy ra (không tăng, không giảm).
Va chạm giao thông trong tháng xảy ra 23 vụ, số người bị thương 28 người. So với tháng 10/2016, số vụ giảm 03 vụ; số người bị thương giảm 08 người. So với tháng 9/2017, số vụ giảm 18 vụ; số người bị thương giảm 31 người.
Tính chung 10 tháng đầu năm (từ ngày 16/12/2016 đến ngày 15/10/2017), toàn tỉnh đã xảy ra 112 vụ TNGT (các vụ có hậu quả từ ít nghiêm trọng trở lên), chết 116 người, bị thương 57 người. Trong đó, TNGT đường bộ xảy ra 110 vụ, chết 114 người, bị thương 57 người; TNGT đường sắt xảy ra 02 vụ, chết 02 người; TNGT đường thủy nội địa không xảy ra.
So với cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 11 vụ (- 8,84%), số người chết giảm 13 người (- 10,08%), số người bị thương giảm 31 người (-35,23%). Trong đó, TNGT đường bộ: số vụ giảm 09 vụ (-7,56%), số người chết giảm 11 người (-8,8%), số người bị thương giảm 31 người (-35,23%); TNGT đường sắt: số vụ giảm 01 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương không tăng, không giảm; TNGT đường thủy nội địa: số vụ giảm 01 vụ, số người chết giảm 01 người.
Va chạm giao thông 10 tháng đầu năm xảy ra 404 vụ, số người bị thương 582 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 08 vụ; số người bị thương giảm 38 người.

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 1306

Tổng số lượt xem: 479160

Bản quyền © 2024 thuộc Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi | Cổng thông tin điện tử Quảng Ngãi

Chịu trách nhiệm nội dung: Võ Thành Nhân - Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Điện thoại: 0255.3822862. Email: quangngai@gso.gov.vn.

Địa chỉ: 19 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

ipv6 ready