Mô hình hóa thu nhập của hộ làm công và lao động làm công trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
15/08/2014 12:00 1317
Kinh tế càng phát triển thì cơ hội có việc làm càng rộng mở đối với người lao động, làm cho số người làm công ăn lương tăng, hình thành nên những hộ chuyên làm công. Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2010, thu nhập của hộ làm công ăn lương đạt 61065,0 ngàn đồng/năm, cao hơn 36,7% so với mức bình quân chung. Bài viết sau sẽ xây dựng mô hình thu nhập của hộ làm công và người làm công ăn lương thông qua sử dụng mô hình hồi quy bội với dạng hàm được chọn là hàm hàm sản xuất Cobb-Douglas. Trước hết, hộ làm công trong bài viết được hiểu là hộ có thành viên trong gia đình làm công ăn lương nhưng không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.- Mô hình hóa thu nhập của lao động làm côngĐể mô hình hóa mối liên hệ giữa thu nhập của hộ (TN) với các nhân tố ảnh hưởng, tác giả chọn các nhân tố cơ bản để thực hiện hồi quy là: Số người làm công (LD), thời gian làm việc (TG) và trình độ học vấn (thời gian đi học) của lao động làm công (HV).
Dạng hàm sản xuất:
TN = A.LDα.TGβHVγ
<=> Ln(TN) = Ln(A) + α.Ln(LD) + β.Ln(TG) + γ.Ln(HV)
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS16 có các kết quả như sau:
Bảng 1. Hộ làm công - Tóm tắc mô hình
Mô hình
Hệ số tương quan
Hệ số tương quan bội
Hệ số tương quan bội điều chỉnh
Sai số chuẩn của ước lượng
0,931
0,867
0,853
0,26597
Bảng 2 . Hộ làm công - ANOVA
Mô hình
Tổng bình phương
Bậc tự do
Phương sai
F
Mức ý nghĩa
Hồi quy
12,483
3
4,161
58,821
0,000
Phần dư
1,910
27
0,071
Tổng số
14,393
30
Bảng 3. Hộ làm công - Hệ số hồi quy
Mô hình
Hệ số hồi quy
Hệ số hồi quy chuẩn hóa
t
Mức ý nghĩa
Kiểm định đa cộng tuyến
B
Sai số chuẩn
Beta
Độ chấp nhận
VIF
Tung độ gốc
4,037
0,553
7,301
0,000
Ln(LD)
0,918
0,144
0,465
6,392
0,000
0,928
1,078
Ln(TG)
0,961
0,120
0,677
8,018
0,000
0,689
1,452
Ln(HV)
0,412
0,129
0,279
3,208
0,003
0,648
1,542
Mức ý nghĩa của hồi quy bằng 0,000 cho thấy mô hình có ý nghĩa về mặt thống kê. Mức ý nghĩa của các biến đều nhỏ hơn mức ý nghĩa α = 0,05 nên cả ba biến đều có ý nghĩa trong mô hình. Hệ số tương quan bội R2 = 0,867 nói lên rằng thu nhập của hộ làm công có tương quan chặt chẽ vào số người làm công, thời gian làm việc và trình độ học vấn của người lao động. Hệ số tương quan bội còn cho thấy 86,7% biến thiên thu nhập từ tiền lương, tiền công của hộ có thể giải thích bởi các yếu tố được chọn đưa vào mô hình; chỉ có 13,3% biến thiên thu nhập từ tiền lương, tiền công của hộ làm công phụ thuộc vào các yếu tố không có trong mô hình. Với kết quả trên, mô hình dự báo thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập của hộ làm công với các nhân tố ảnh hưởng có dạng hàm như sau: Ln(TN) = 4,037 + 0,918.Ln(LD) + 0,961.Ln(TG) + 0,412.Ln(HV) Hay: TN = e4,037.LD0,918.TG0,961.HV0,412 = 56,656. LD0,918.TG0,961.HV0,412 Trong các nhân tố trên, quan trọng nhất là thời gian làm việc vì hệ số hồi quy chuẩn hoá (beta) của TG lớn nhất, yếu tố quan trọng thứ hai là số người làm công và cuối cùng là trình độ học vấn của lao động. Mô hình cho thấy thu nhập của hộ làm công sẽ tăng thêm 0,918% nếu số người làm công tăng 1% trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi; tăng thêm 0,961% nếu thời gian làm việc của mỗi lao động tăng 1%; tăng thêm 0,412% nếu thời gian học của lao động tăng thêm 1%. - Mô hình hóa thu nhập của lao động làm công Các nhân tố cơ bản được chọn để thực hiện hồi quy là: số ngày công lao động trong năm – ngày công (TG), trình độ học vấn của lao động (HV), độ tuổi của lao động (T). Đồng thời, để nghiên cứu ảnh hưởng của giới tính đến thu nhập, tác giả sử dụng biến giả là giới tính (G) của người lao động. Dạng hàm sản xuất: TN = A.TG α .HV β Tγ G δ <=> Ln(TN) = Ln(A)+ α .Ln(TG)+ β .Ln(HV) + γ .Ln(T) + δ .Ln(G) Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS16 với các biến TG, HV, T và G có kết quả như sau:
Tóm tắc mô hình
Mô hình
Hệ số tương quan
Hệ số tương quan bội
Hệ số tương quan bội điều chỉnh
Sai số chuẩn của ước lượng
0,796
0,633
0,630
0,46045
5. Lao động làm công - ANOVA
Mô hình
Tổng bình phương
Bậc tự do
Phương sai
F
Mức ý nghĩa
Hồi quy
171,938
4
42,985
202,747
0,000
Phần dư
99,645
470
0,212
Tổng số
271,583
474
6. Lao động làm công - Hệ số hồi quy
Mô hình
Hệ số hồi quy
Hệ số hồi quy chuẩn hóa
t
Mức ý nghĩa
Kiểm định đa cộng tuyến
B
Sai số chuẩn
Beta
Độ chấp nhận
VIF
Tung độ gốc
2,566
0,299
8,575
0,000
Ln(TG)
0,839
0,041
0,611
20,564
0,000
0,883
1,132
Ln(HV)
0,367
0,041
0,270
9,025
0,000
0,870
1,150
Ln(T)
0,513
0,067
0,220
7,659
0,000
0,945
1,058
Ln(G)
0,217
0,045
0,136
4,851
0,000
0,988
1,012
Mức ý nghĩa của hồi quy bằng 0,000 cho thấy mô hình có ý nghĩa về mặt thống kê. Mức ý nghĩa của các biến TG, HV, T và G đều nhỏ hơn mức ý nghĩa α = 0,05 nên tất cả các biến này đều có ý nghĩa trong mô hình. Hệ số tương quan bội R2 = 0,633 cho thấy thu nhập của người làm công phụ thuộc khá chặt chẽ vào số ngày công, trình độ học vấn, tuổi và giới tính. Hệ số tương quan bội còn cho thấy 63,3% biến thiên thu nhập của người làm công có thể giải thích bởi các yếu tố được chọn đưa vào mô hình, còn lại 36,7% biến thiên thu nhập phụ thuộc vào các yếu tố không có trong mô hình. Trong mô hình này, độ chấp nhận của các biến rất cao, hệ số VIF của các biến khá nhỏ, rất gần với 1 nên đảm bảo rằng không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập. Với kết quả trên, mô hình dự báo thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập của người làm công với các nhân tố ảnh hưởng có dạng hàm như sau: Ln(TN) = 2.566 + 0,839.Ln(TG)+ 0,367.Ln(HV) + 0,513.Ln(T) + 0,217.Ln(G) Hay: TN = e2,566.TG0,839.HV0,367.T0,513 .G0,217 = 13,01. TG0,839.HV0,367.T0,513 .G0,217 Trong các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của người làm công, quan trọng nhất là số ngày công vì hệ số hồi quy chuẩn hoá (beta) của TG là 0,611, lớn hơn hệ số hồi quy chuẩn hoá của các biến còn lại, thứ hai là trình độ học vấn, thứ ba là độ tuổi và thứ tư là giới tính của người lao động. Mô hình cho thấy thu nhập của người làm công sẽ tăng thêm 0,839% nếu thời gian làm việc tăng 1% trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi; tăng thêm 0,367% nếu thời gian học của người làm công tăng 1%; tăng thêm 0,513% nếu độ tuổi của người làm công tăng 1%. Đối với biến giả (G), vì e0,217 = 1,24 nên thu nhập của nam giới cao hơn nữ giới 1,24%, tức trong điều kiện như nhau về tuổi tác, thời gian làm việc, trình độ học vấn thì thu nhập của lao động nam cao hơn lao động nữ 1,24%. Từ hai mô hình ở trên, có thể thấy rằng, để tăng thu nhập cho hộ cũng như lao động làm công, cần phải sử dụng triệt để nguồn lao động của hộ, nâng cao trình độ học vấn của người lao động, tăng thời gian làm việc cho người lao động bằng cách tạo việc làm, giảm thời gian nhàn rỗi, thất nghiệp.Tin liên quan
Thống kê truy cập
Số lượt truy cập: 1921
Tổng số lượt xem: 486308