Truy cập nội dung luôn

Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin xứng tầm ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước

10/07/2024 16:58    101

Với sự điều hành linh hoạt của Chính phủ, sự năng động của nền kinh tế đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) đã tự khẳng định là một trong những ngành có chuyển biến tích cực nhất trong những năm qua, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Chính vì vậy, định hướng phát triển công nghiệp CNTT xứng đáng với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn được coi là giải pháp tạo nguồn lực tối ưu, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hướng đến phát triển bền vững và thực hiện các cam kết quốc tế như hiện nay.

Công nghệ thông tin ngày càng khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được nhấn mạnh trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị (Khóa XII) đã chỉ rõ định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với quan điểm phát triển công nghiệp CNTT, công nghiệp điện tử là con đường chủ đạo; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát triển công nghiệp xanh. Chủ trương đến năm 2030, tập trung ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp: CNTT và viễn thông, công nghiệp điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 nhằm tạo ra nền tảng công nghệ số cho các ngành công nghiệp khác. Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng trong lĩnh vực chuyển đổi số:“Phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số và coi đây là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Trong đó, công nghiệp CNTT (công nghiệp ICT, công nghiệp công nghệ số) được xác định là một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi số, nhằm cung cấp các công nghệ cơ bản, góp phần thay đổi toàn diện cả về tổ chức, quy trình kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp đến sự tham gia của con người trong quá trình thực hiện.

Công nghiệp CNTT được xác định là một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi số

Chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam từ đất nước đi lên sau chiến tranh, gỡ bỏ chế độ bao cấp, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường đã nhanh chóng trở thành quốc gia mạnh về CNTT. Với số lượng người dùng internet thuộc top cao nhất trên thế giới, Việt Nam triển khai mạnh mẽ ứng dụng CNTT trong các hoạt động đời sống và ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Các hoạt động của Chính phủ, người dân và doanh nghiệp đều sử dụng mạng internet trên các nền tảng kết nối khác nhau; nhiều địa phương cũng ứng dụng công nghệ số vào hoạt động quản lý kinh tế xã hội.

Đến nay, khung pháp lý tổng thể về công nghiệp CNTT để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và nhiệm vụ phát triển được Việt Nam tích cực nghiên cứu xây dựng, hình thành và dần hoàn thiện. Bước đầu là Luật CNTT năm 2006 với 4 thành phần chính, gồm: Nghiên cứu - phát triển (R&D), phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp CNTT, phát triển dịch vụ CNTT. Trong đó, các cấu phần của ngành công nghiệp CNTT được quy định tại Luật bao gồm các loại hình: Công nghiệp phần cứng, điện tử; công nghiệp phần mềm; công nghiệp nội dung số; khu CNTT tập trung. Để làm rõ hơn các khái niệm trong lĩnh vực công nghiệp CNTT, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/5/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều về công nghiệp CNTT của Luật CNTT; Nghị định số 154/2013/ NĐ-CP ngày 08/11/2013 quy định về khu CNTT tập trung và Quyết định số 2407/QĐ- TTg ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển khu CNTT tập trung đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 để tạo hành lang pháp lý phát triển khu CNTT tập trung. Tại Quyết định 411/QĐ-TTg năm 2022 quy định về phát triển nền móng kinh tế số và xã hội số, để phát triển doanh nghiệp số, Chính phủ xác định nhiệm vụ trọng tâm là tổ chức triển khai Chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

Giai đoạn 2018-2022, doanh thu lĩnh vực công nghiệp CNTT của Việt Nam liên tục tăng trưởng, từ gần 103 tỷ USD năm 2018 lên khoảng 148 tỷ USD năm 2022, đóng góp khoảng 14,4% vào GDP cả nước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu phần cứng, điện tử năm 2022 gồm: Điện tử, máy tính và linh kiện, điện thoại và linh kiện đạt trên 113,5 tỷ USD (xuất siêu trên 10 tỷ USD). Năm 2023, do tác động của suy thoái kinh tế cùng bất ổn, gia tăng căng thẳng chính trị, doanh thu công nghiệp CNTT đạt khoảng 142 tỷ USD; khoảng 1.500 doanh nghiệp công nghệ số có doanh thu từ thị trường nước ngoài (tăng gần 4% so với năm 2022). Kim ngạch xuất khẩu ngành hàng điện tử, máy tính và linh kiện, điện thoại và linh kiện năm 2023 dù có sự sụt giảm so với năm 2022, chỉ đạt 110,5 tỷ USD nhưng vẫn giữ vai trò chủ lực trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Từ năm 2017 đến nay, Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) của Việt Nam được cải thiện đáng kể. Năm 2023, Việt Nam được xếp hạng 46/132 quốc gia, nền kinh tế, tăng 13 bậc kể từ vị trí thứ 59 năm 2016. Trong đó, Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào của đổi mới sáng tạo, tăng 2 bậc so với năm 2022 (từ vị trí 59 lên 57); đầu ra của đổi mới sáng tạo tăng 1 bậc so với năm 2022 (từ vị trí 41 lên 40). Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đánh giá, Việt Nam là 1 trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về đổi mới sáng tạo trong thập kỷ qua và là 1 trong 3 quốc gia giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 13 năm liên tiếp (gồm Ấn Độ, Cộng hòa Moldova và Việt Nam). Việt Nam ngày càng có vai trò lớn trong ngành công nghệ phần mềm thế giới, khi liên tục cải thiện thứ hạng và lọt Top 30 thế giới về gia công phần mềm. Xuất khẩu phần mềm của Việt Nam phần lớn cho 2 thị trường chính là Mỹ và Nhật Bản. Các doanh nghiệp chủ yếu làm gia công phần mềm hoặc chỉ thực hiện một số công đoạn theo đơn đặt hàng của nước ngoài trước đây đã chuyển hướng ra thị trường nước ngoài, tư vấn dịch vụ, sáng tạo nội dung.

Với quy mô dân số gần 100 triệu người, có tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh cao, trên 70% dân số sử dụng điện thoại thông minh có kết nối internet, thị trường nội địa được kỳ vọng là tiềm năng để phát triển công nghiệp CNTT. Bên cạnh đó, với những thành tựu công nghệ nhất định, cùng nền kinh tế năng động và chính sách cởi mở, Việt Nam trở thành điểm sáng đầu tư của nhiều tập đoàn công nghệ trên thế giới như IBM, Intel, Microsoft, Samsung… Các tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ trong nước như: FPT, VNPT, Viettel... hứa hẹn phát triển vượt bậc hơn nữa trong tương lai. Nguồn nhân lực CNTT cũng được chú trọng để đáp ứng xu hướng phát triển chung của thế giới, được nhấn mạnh trong các văn kiện của Đảng, mà gần đây nhất là Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đến nay, số lượng trường đào tạo chính quy ngành CNTT phát triển nhanh về quy mô cũng như hình thức đào tạo, cung ứng một nguồn nhân lực chất lượng cho đất nước.

Sự phát triển nhảy vọt và mạnh mẽ của công nghiệp công nghệ thông tin trong thời gian qua đã, đang khẳng định thương hiệu và uy tín của Việt Nam trên bản đồ CNTT thế giới; đưa Việt Nam trở thành một trong những nước mạnh về CNTT trong khu vực; đứng số một về ngành dịch vụ phần mềm trong 6 nước phát triển mạnh nhất khu vực Đông Nam Á.

Giải pháp phát triển công nghiệp CNTT thành ngành kinh tế mũi nhọn

Để cụ thể hóa định hướng, chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp CNTT trong giai đoạn tới, khả năng tự chủ trong nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo và làm chủ công nghệ lõi, công nghệ số mới, nguồn nhân lực CNTT, kết cấu hạ tầng số và các nguồn lực khác cần được xác định là quan điểm chủ chốt. Việt Nam cần nâng cao năng lực làm chủ công nghệ lõi, công nghệ mới, nghiên cứu, sáng tạo sản phẩm, dịch vụ công nghệ số nhằm hiện thực hóa chủ trương “Make in Viet Nam”, phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế sô và xã hội số. Đồng thời, cần chú trọng phát triển hệ sinh thái sản phẩm công nghệ số“Make in Viet Nam” có chất lượng và thương hiệu thông qua việc ban hành các chính sách thúc đẩy, khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp CNTT áp dụng các chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế, quốc gia về quy trình sản xuất, quản lý chất lượng, bảo đảm an toàn thông tin như các tiêu chuẩn: Mô hình trưởng thành năng lực tích cực (CMMi), ISO, Phương pháp phát triển phần mềm (Agile), Quy trình phát triển phần mềm (Scrum) và các chuẩn quốc tế phù hợp khác. Phát huy hiệu quả nguồn ngân sách Nhà nước, tiếp tục đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp CNTT.

Mặt khác, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành công nghiệp CNTT bằng việc nghiên cứu, ban hành khung kỹ năng về nhân lực công nghệ số theo mục tiêu, theo giai đoạn để tạo đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực số dồi dào và chất lượng. Chú trọng đào tạo nhân lực công nghệ số chất lượng cao đáp ứng nhu cầu cả về lượng và chất; có chính sách đãi ngộ nhân tài.

Phát triển công nghiệp CNTT được kỳ vọng sẽ tạo động lực to lớn, là con đường ngắn nhất và nhanh nhất để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh, tự lực, tự cường. Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch) mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 vừa qua đã xác định công nghiệp công nghệ số là ngành công nghiệp nền tảng, cần có cơ chế chính sách đặc biệt để thúc đẩy phát triển.
Quy hoạch đặt ra định hướng phát triển công nghiệp công nghệ thông tin dựa trên các công nghệ số như Trí tuệ nhân tạo AI, dữ liệu lớn Big Data, chuỗi khối, điện toán đám mây, Internet vạn vật…; tăng cường ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội để hình thành công nghiệp công nghệ số. Trọng tâm phát triển nhanh và bền vững của Ngành là chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang tạo ra những sản phẩm, dịch vụ điện tử, viễn thông, CNTT Make in Viet Nam, góp phần tạo không gian phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và tham gia sâu vào những công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị sản xuất công nghiệp công nghệ số thế giới.

Để phát triển công nghệ CNTT theo Quy hoạch, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2025, hình thành và triển khai đề án, dự án 12-14 khu công nghệ thông tin tập trung và thành viên chuỗi khu công viên phần mềm trên cả nước; xây dựng một số khu CNTT tập trung ở các tỉnh, thành phố có đủ điều kiện; ưu tiên triển khai các khu CNTT tập trung có các dự án thành lập trung tâm R&D, sản xuất các sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam phục vụ cho chuyển đổi số quốc gia. Đến năm 2030, hình thành 16-20 khu công nghệ thông tin tập trung và thành viên chuỗi khu công viên phần mềm Thu hút đầu tư, phát triển mạnh các khu CNTT tập trung tại các thành phố trực thuộc Trung ương và một số vùng có sự phát triển mạnh về công nghiệp CNTT. Nâng cấp, mở rộng kết nối các khu CNTT tập trung tại một số địa phương trong vùng trở thành các khu CNTT tập trung lớn của khu vực, trong đó có các trung tâm R&D của các tập đoàn công nghệ lớn quốc tế.

Các khu CNTT tập trung đem lại cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp lĩnh vực CNTT hoạt động, là vườn ươm cho doanh nghiệp mới phát triển, cho hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Đồng thời, đây còn là nơi đặt những trung tâm đào tạo nhân lực quan trọng cho cả nước nói chung và ngành CNTT nói riêng. Khi được đưa vào khai thác, sử dụng sẽ tạo ra hệ sinh thái, nâng cao năng lực cạnh tranh và hàm lượng sản phẩm CNTT Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Nguồn Tạp chí Con số & Sự kiện

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 639

Tổng số lượt xem: 833465

Bản quyền © 2024 thuộc Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi | Cổng thông tin điện tử Quảng Ngãi

Chịu trách nhiệm nội dung: Võ Thành Nhân - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi.

Điện thoại: 0255.3822862. Email: quangngai@gso.gov.vn.

Địa chỉ: 19 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

ipv6 ready