Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi sau 35 năm tái lập tỉnh, 1989 - 2024
30/08/2024 15:28 39
Đầu tư là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái cũng như đưa các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vào cuộc sống.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là một trong những chỉ tiêu phản ánh tập trung mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Hệ số ICOR được sử dụng là một số đo hiệu quả đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở nhiều giai đoạn và các nền kinh tế khác nhau. Hệ số ICOR thay đổi tuỳ theo thực trạng kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ khác nhau, phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư và hiệu quả sử dụng đồng vốn. Nếu hệ số ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao và ngược lại ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư kém hiệu quả.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những cơ sở để rà soát và sửa đổi mục tiêu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả về chất lượng sử dụng vốn đầu tư và đảm bảo tăng trưởng bền vững. Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hóa. Thông thường mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, thất thoát nhiều.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được tính theo nhiều phương pháp khác nhau, dưới đây sử dụng phương pháp tính ICOR từ các số tuyệt đối theo công thức sau:
ICOR |
= |
V1 |
G1 - G0 |
Trong đó:
ICOR : Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư;
V1 : Vốn đầu tư thực hiện của kỳ nghiên cứu;
G1 : Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh của kỳ nghiên cứu;
G0 : Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh của kỳ trước kỳ nghiên cứu.
Các chỉ tiêu về vốn đầu tư thực hiện và GRDP để tính hệ số ICOR được tính theo cùng một giá. Trong bài viết này sử dụng giá so sánh 2010.
Ngày 01 tháng 7 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Khi mới được tái lập tỉnh, Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, công nghiệp không có gì đáng kể, xuất phát điểm về kinh tế - xã hội rất thấp. Sau 35 năm tái lập tỉnh, nền kinh tế của Quảng Ngãi đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế đáng khích lệ, tăng trưởng kinh tế bình quân tăng 8,92%/năm. Quy mô nền kinh tế mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản (NLTS) giảm từ 52,68% (năm 1990) xuống còn 16,08% (năm 2023), ngành công nghiệp - xây dựng (CNXD) từ 16,52% (năm 1990) tăng lên 45,71% (năm 2023).
Kinh tế liên tục tăng trưởng, đặc biệt từ khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá hiện hành đạt 413 tỷ đồng năm 1990, đến năm 2023 đạt 126.934 tỷ đồng, so với năm 1990 quy mô GRDP năm 2023 gấp 307,36 lần. Tính theo giá so sánh, bình quân cả thời kỳ 1991 - 2023, GRDP tỉnh Quảng Ngãi tăng 8,92%/năm.
Từ nguồn số liệu của Cục Thống kê tỉnh Quảng Ngãi, kết quả tính toán hệ số ICOR của tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2023 như sau:
Hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 – 2023
Năm |
Lượng tăng/giảm GRDP | ICOR | |
---|---|---|---|
1991 | 101 | 3,06 | |
1992 | 52 | 8,78 | |
1993 | 221 | 2,07 | |
1994 | 449 | 1,33 | |
1995 | 539 | 1,55 | |
1996 | 629 | 1,41 | |
1997 | 512 | 1,94 | |
1998 | 498 | 4,10 | |
1999 | 454 | 7,00 | |
2000 | 605 | 4,22 | |
2001 | 495 | 7,59 | |
2002 | 851 | 5,33 | |
2003 | 873 | 5,75 | |
2004 | 996 | 6,11 | |
2005 | 1.160 | 7,56 | |
2006 | 1.475 | 9,13 | |
2007 | 1.726 | 15,98 | |
2008 | 1.597 | 17,46 | |
2009 | 4.874 | 3,62 | |
2010 | 13.569 | 1,14 | |
2011 | 1.978 | 4,71 | |
2012 | 1.364 | 6,38 | |
2013 | 4.949 | 1,77 | |
2014 | -2.980 | -3,67 | |
2015 | 3.102 | 3,80 | |
2016 | 329 | 40,50 | |
2017 | 613 | 27,18 | |
2018 | 3.714 | 8,59 | |
2019 | 2.060 | 13,53 | |
2020 | -302 | -64,86 | |
2021 | 3.489 | 4,73 | |
2022 | 4.861 | 4,30 | |
2023 | 3.030 | 7,41 |
Đồ thị biểu diễn sự biến thiên của hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2023
Hệ số ICOR của Quảng Ngãi biến động không ổn định qua các năm. Nếu như năm 1991, hai năm sau tái lập tỉnh, hệ số ICOR của Quảng Ngãi là 3,06, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải đầu tư 3,06 đồng vốn, thì đến năm 2008, hệ số ICOR là 17,46, năm 2016 là 40,50 và năm 2023, con số này là 7,41.
Bảng số liệu và đồ thị biểu diễn trên cho thấy, năm 2010 là năm có hiệu quả dụng vốn hiệu đạt cao nhất khi hệ số ICOR là 1,14, nghĩa là để tạo ra một đồng GRDP chỉ cần đầu tư 1,14 đồng; trong khi đó, năm 2016 là năm hiệu quả sử dụng vốn đạt thấp nhất khi hệ số ICOR là 40,50, nghĩa là để tạo ra một đồng GRDP cần phải đầu tư đến 40,50 đồng. Sở dĩ năm 2010, hệ số ICOR thấp là do cuối năm 2005, Nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu được đầu tư trên địa bàn tỉnh nên GRDP năm 2009 và 2010 tăng khá cao, nghĩa là đầu tư lúc này phát huy tác dụng nên đem lại hiệu quả cao. Năm 2016, đầu tư tăng 13% nhưng GRDP chỉ tăng 0,75% nên hiệu quả đầu tư thấp nhất trong giai đoạn 1991 - 2023 (hai năm 2014 và 2020 tăng trưởng âm nên ICOR không có ý nghĩa).
Hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi phân theo các giai đoạn
Phân theo giai đoạn, hệ số ICOR bình quân tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 1991 - 2000 là thấp nhất với 3,03; bình quân giai đoạn 2001 - 2010 là 4,72; bình quân giai đoạn 2011 - 2020 là 10,71 và bình quân giai đoạn 2021 - 2023 là 5,26. Hệ số ICOR giai đoạn 2011 - 2020 là cao nhất, điều này cho thấy giai đoạn 2011 - 2020 hiệu quả sử dụng vốn trên địa bàn tỉnh là thấp nhất trong các giai đoạn, so với giai đoạn 2001 - 2010, để tạo ra một đồng GRDP trong giai đoạn 2011 - 2020 thì cần phải đầu tư tăng hơn 5,99 đồng; giai đoạn này ICOR tỉnh Quảng Ngãi cao hơn cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung.
Giai đoạn 2011 - 2023, hệ số ICOR bình quân tỉnh Quảng Ngãi là 8,35; so với các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung và các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ như sau:
Hệ số ICOR cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung giai đoạn 2011 - 2023
Hệ số ICOR các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ giai đoạn 2011 – 2023
Nhìn chung, hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi bình quân các năm từ 2011 đến nay đều ở mức cao, cao hơn bình quân chung của cả nước và các tỉnh Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung cũng như các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ. Sở dĩ hệ số ICOR của Quảng Ngãi giai đoạn này cao là do trong 14 năm, từ năm 2011 đến năm 2023, thì có đến 4 năm Nhà máy lọc dầu Dung Quất tiến hành bảo dưỡng tổng thể (vào các năm 2011, 2014, 2017 và 2020), trong khi sản phẩm lọc hóa dầu chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế của tỉnh, làm cho tăng trưởng GRDP các năm này giảm hoặc đạt rất thấp, dẫn đến tăng trưởng cả giai đoạn đạt thấp (tăng 4,36%).
Bình quân cả thời kỳ 1991 - 2023, hệ số ICOR tỉnh Quảng Ngãi là 6,24. Hệ số này được đánh giá là cao, hiệu quả đầu tư còn thấp so với các tỉnh trong khu vực. Nguyên nhân một phần là do nền kinh tế đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng ở miền núi và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội. Các dự án đầu tư công dù thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, song tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí cũng còn nhiều. Cả thời kỳ 1991 - 2023, để GRDP tăng bình quân 8,92%/năm, tỉnh Quảng Ngãi phải tăng vốn đầu tư tới 14,45%/năm, vốn đầu tư vẫn chiếm tới 35,40%/năm GRDP.
Nhìn chung, số liệu về tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP, tốc độ tăng GRDP và chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của tỉnh Quảng Ngãi từ ngày tái lập tỉnh được đánh giá là tương đối cao, sử dụng vốn đầu tư còn chưa hiệu quả; trong đó, giai đoạn 2011 - 2020 là giai đoạn đầu tư kém hiệu quả nhất với tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP là 30,42%/năm nhưng tốc độ tăng GRDP chỉ đạt 3,56%/năm và chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư lên đến 10,71.
Tin liên quan
- So sánh giữa Thu nhập bình quân đầu người và GRDP bình quân đầu người
- Khu kinh tế Dung Quất - Động lực phát triển của kinh tế Quảng Ngãi
- Phát huy vai trò hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị sản xuất
- Tỷ số giới tính khi sinh tỉnh Quảng Ngãi- nhìn từ kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019
- Một số kết quả khảo sát ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Thống kê truy cập
Số lượt truy cập: 1601
Tổng số lượt xem: 783755